Sunday, April 10, 2016

Bia chủ quyền xưa của TQ ở biển Đông: Nguỵ tạo bằng chứng có chủ trương

KHẢO CỔ VÀ YÊU NƯỚC: CHIẾN LƯỢC DÀI HẠN CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG[1]




François-Xavier Bonnet


 (bản dịch đã đăng trên Tuổi trẻ ngày 10/04/2016 có rút gọn đôi chút)


 "Nghệ thuật tuyệt đỉnh của chiến tranh là  chinh phục kẻ thù mà không phải đánh," Tôn Tử.

"Điều hay tuyệt đỉnh là phá vở sự kháng cự của địch mà không cần phải đánh," Tôn Tử.


Tóm tắt :

Nhiều tác giả viết về yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa nêu thời gian phái đoàn Trung Quốc chính thức đầu tiên tới quần đảo này là năm 1902. Tuy nhiên, không ai trong số những tác giả đó có thể đưa ra bất kì tài liệu nào về việc diễn ra.chuyến đi này. Trên thực tế,tư liệu của Trung Quốc lại cho thấy chuyến đi đó chẳng hề xảy ra. Thay vào đó là một chuyến đi bí mật xảy ra nhiều thập kỉ sau đó để cấy bằng chứng khảo cổ giả trên các đảo này để củng cố yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Mưu chước tương tự cũng đã được áp dụng ở quần đảo Trường Sa: các bia chủ quyền năm 1946 trên thực tế đã được đặt sau đó 10 năm, vào năm 1956.


Giới thiệu :

Giáo sư Marwyn Samuels, trong cuốn sách nổi tiếng của ông "Contest for the South China Sea” (Cuộc thi thố vì biển Đông) đã trách cứ học giả phương Tây nào nói phái đoàn Trung Quốc đầu tiên tới quần đảo Hoàng Sa xảy ra năm 1909. Thay vì vậy, ông khẳng định rằng chuyến đi đầu tiên này diễn ra vào năm 1902. Theo Samuels, chuyến đi thẩm tra đầu tiên này do Đề đốc Lí Chuẩn chỉ huy và là nỗ lực đầu tiên để thực hiện công ước Pháp - Thanh  1887, khẳng định quyền của Trung Quốc đối với các đảo này.[2] Kể từ công trình khai phá này của Samuels, việc dẫn sự kiện ‘không thể tranh cãi’ đó vào các sách báo liên quan đến các tranh chấp ở biển Đông đã biến thành chuyện thông thường. Tuy nhiên, không ai trong số các tác giả sau này có thể chứng minh đuợc nhận định này.


Chiến dịch khảo cổ thập niên 1970 và chuyện kể truờng thiên:

Từ năm 1974 đến 1979, số cuộc khảo cổ đã được quân đội Trung Quốc (PLA) và các nhà khảo cổ học tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa. Trong số các hiện vật mà những đoàn khảo cổ tìm được là đồ sứ thuộc các thời kì khác nhau, phế tích của chùa miếu và một số bia/mốc chủ quyền. Những bia này đề năm 1902, 1912 và 1921. Năm 1973, tạp chí Thập kỉ 70 (七十年代:Thất thập niên đại) ở Hong Kong,, đã đăng ảnh một bia chủ quyền khắc năm 1902 được tìm thấy trên một đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa.[3] Báo Hong Kong Standard (香港郵: Hương Cảng bưu báo) tuờng thuật những phát hiện ngày 6 tháng 3 năm 1979 trong một bài báo có tựa đề "Bia chứng minh cho chủ quyền xa xưa." Cả hai bài báo này, đều có đăng ảnh một bia năm 1902, đã trở thành nguồn thông tin duy nhất vế chuyến đi “không thể chối cãi" năm 1902 cho các học giả như Hungdau Chiu và Choon-ho Park và Marwyn Samuels vào năm 1982. Trước năm 1979, không học giả phương Tây hay Trung Quốc nào có đề cập đến sự tồn tại của chuyến đi năm 1902. Chuyến đi chính thức có ghi nhận trong lịch sử nhà Thanh là chuyến thẩm tra của Đề đốc Lí Chuẩn năm 1909.


Chuyến đi ‘ma’ trong quần đảo Hoàng Sa:

Có một lí do đơn giản vì sao không một học giả nào có thể tìm ra được tài liệu lịch sử nào về chuyến đi năm 1902: nó chẳng hề xảy ra. Thay vào đó bằng chứng về chuyến đi năm 1902 đã được nguỵ tạo ra muộn hơn nhiều: năm 1937.

Tháng 6 năm 1937, truởng khu hành chánh 9 của Trung Quốc, Hoàng Cuờng (黄强/Huang Qiang), đã được phái đến quần đảo Hoàng Sa với hai nhiệm vụ: Một là kiểm tra các báo cáo rằng người Nhật đã xâm chiếm các đảo này và hai là tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với chúng. Theo các hồ sơ về chuyến công tác này của ông đề ngày 31/7/1937, ông rời Quảng Đông vào ngày 19/6 và đến quần đảo Hoàng Sa vào ngày 23/6. Trong cùng ngày, ông đến 4 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trong nhóm An Vĩnh [Amphitrite] (đảo Phú Lâm [Woody], đảo Đá [Rocky], đảo Lincoln [Ling Zhou/玲洲: Linh Châu] và đảo Bắc [Bei/]). Ngày hôm sau, 24/6, ông quay trở lại Hải Nam.

Chuyến công tác ngắn và bí mật này đã được các nhà sử học Trung Quốc Hàn Chấn Hoa (Han Zenhua/韩振华), Lâm Kim Chi (Lin Jin Zhi/林金枝), Ngô Phượng Bân (Wu Feng Bin/吴凤斌) kể lại trong công trình chuyên đề "Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên" được xuất bản năm 1988.[4] Tuy nhiên, nếu họ có công bố báo cáo đề ngày 31/7/1937,  họ đã quên, dù có ý thức hay không, công bố phụ lục của báo cáo này. May thay, phụ lục bí mật đó đã được Ủy ban đia danh tỉnh Quảng Đông công bố năm 1987 trong một cuốn sách có tựa đề "Sưu tập tài liệu về địa danh các đảo ở biển Đông." Phụ lục này đưa ra các chi tiết về hoạt động của Hoàng Cường ở quần đảo  Hoàng Sa.[5]

Trong phụ lục này, Hoàng Cường giải thích rằng, theo kế hoạch, tàu của ông đã chở theo 30 bia chủ quyền. Trong số đó, có 4 bia thuộc thời nhà Thanh, những bia khác thuộc năm 1912 (Trung Hoa Dân Quốc tròn một tuổi) và năm 1921. Tuy nhiên, ông không mang theo bia năm 1937 do đây là chuyến công tác bí mật. Nhóm của ông tìm đuợc 4 bia thời nhà Thanh, có khắc năm 1902, tại thành phố Quảng Đông. Theo phụ lục báo cáo của ông, nhóm của ông chôn các bia này, ghi nhận tọa độ địa lí của chúng ở 4 đảo. Trên đảo Bắc, họ chôn 2 bia khắc năm 1902 và 4 bia đề năm 1912. Trên đảo Lincoln (Ling Zhou), đội chôn 1 bia khắc năm 1902, 1 bia năm 1912 và 1 bia năm 1921. Trên đảo Phú Lâm 2 bia khắc năm 1921 đã được chôn. Cuối cùng, trên đảo Đá (Shi Dao/石岛: Thạch đảo), họ chỉ đặt 1 bia khắc năm 1912.

Tóm lại, năm 1937 phái đoàn đã đặt tổng cộng 12 bia trên các đảo, trong đó có 3 bia ghi năm 1902. Các bia này đã bị quên lãng từ 1937 đến 1979 nhưng sau đó đã được các nhà khảo cổ và PLA."phát hiện ra" từ năm 1974 đến năm 1979. Điều này gần như chắc chắn là lời giải thích cho câu văn bí ẩn trong cuốn sách của Samuels khi ông viết rằng các bia năm 1902 được cho là đã bị mất trong chiến tranh thế giới II.[6]


Những bí ẩn của các dấu chủ quyền ở quần đảo Trường Sa:

Hầu hết các sách, bài viết, và tuyên bố chính thức nêu rằng Trung Quốc đã chiếm lại quần đảo Trường Sa vào năm 1946 từ tay Nhật và đã dựng các bia chủ quyền trên một số đảo. Chuyện này đã được tác giả  Đài Loan Truơng Chấn Quốc (Zhang Zhen Guo/(张振国) kể lần đầu tiên  trong cuốn sách của ông "Chuyến đi đến Nam Sa" [Nansha xing/南沙行: Nam Sa hành] được viết vào năm 1957, nhưng được xuất bản năm 1975,[7]

Trương Chấn Quốc, đội phó trong chuyến đi của THDQ tới quần đảo Trường Sa năm 1956 (đối phó với Thomas Cloma), đã viết rằng trong chuyến đi năm 1946 do tư lệnh Mạch Uẩn Du (Mai Yun Yu/麦蕴瑜) lãnh đạo, đoàn đã nắm quyền kiểm soát của 3 hòn đảo, cụ thể là đảo Taiping [太平] (đảo Itu-Aba/Ba Bình), Nam Wei [南威岛: Nam Uy] (đảo Trường Sa) và đảo Xi Yue [西月島:Tây Nguyệt] (đảo West York/Bến Lạc). Trên 3 đảo này, nhóm của Mạch Uẩn Du dựng các bia chủ quyền khắc năm 1946,[8]

Tuy nhiên, khi cuốn sách của Trương Chấn Quốc xuất bản vào năm 1975, Mạch Uẩn Du vẫn còn sống và đã đọc nó. Điều đó là một cú sốc đối với ông! Thật ra, ông nhìn nhận rằng dù nhóm của ông đã có đến đảo Ba Bình vào tháng 12 năm 1946, phá hủy các bia của Nhật và đã trồng hai bia chủ quyền (phía Bắc và Nam của đảo) nhưng họ chưa hề đi đến đảo Trường Sa và đảo Bến Lạc.

Thật ra, theo các hồ sơ chính thức, khi Thomas Cloma của Philippines tuyên bố sở hữu đối với quần đảo Trường Sa (Freedomland) vào năm 1956, Đài Loan đã có 3 lần tuần tra quần đảo này (2 tàu từ 2 tới 14 tháng 6, 3 tàu từ 29 tháng 6 đến 22 tháng 7 và 2 tàu từ 24 tháng 9 tới 5 tháng 10). Trong những lần tuần tra này, binh sĩ đã tổ chức lễ chào cờ và dựng bia chủ quyền trên 3 đảo Ba Bình, Trường Sa và Bến Lạc. Tuy nhiên, các bia này khắc năm 1946 nhưng chỉ mới đưa tới Nam Sa 10 năm sau đó, vào năm 1956, như một mưu gian.[9]


Khảo cổ và yêu nước: Tính chính trị của các bia chủ quyền

Các nhà khảo cổ có thành thật khi họ tìm thấy các cột mốc ở quần Hoàng Sa? Hoặc giả họ đã được PLA, vốn biết rõ chuyện này, kèm cặp? Chúng ta không biết đuợc. Tuy nhiên, nếu chúng ta thêm màn diễn của quần đảo Trường Sa vào, chúng ta có thể nhìn thấy một mưu đồ phức tạp và có hệ thống hơn về viêc nguỵ tạo hồ sơ. Hai màn diễn này cho thấy những hạn chế của việc dựa vào các hiện vật khảo cổ nhằm cố gắng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Vật thể có thể là đích thật (từ các bảo tàng chẳng hạn), nhưng được chôn rất trễ sau này. Trong cuộc chiến tranh tâm lí đối với các đảo ở biển Đông, thủ đoạn gian xảo này có thể trở thành thực tế. Điều này có vẻ là những gì đã xảy ra trong những vụ việc này. Các huyền thoại đã xuất hiện trong nhiều công trình viết bằng tiếng Anh và đã đi đến người đọc quốc tế. Dù vậy, có vẻ rằng những huyền thoại này sẽ được một ít nhà nghiên cứu có kiến ​​thức về tiếng phổ thông và một nhóm các chuyên gia Trung Quốc biết rất rõ. Tóm lại, điều đó gợi ra rằng ‘khảo cổ yêu nước' là lệch lạc sâu đậm và các chuyên gia nên thận trọng trước khi dựa vào nó để chuyển việc phán đoán về tranh chấp lãnh thổ.


------------------------------
 ẢNH BIA CHỦ QUYỀN  CHỦ QUYỀN 1902 

Bia triều Quang Tự (1882-1902) trên một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa

Nguồn: Thomas H. Hahn docu-Images. http://hahn.zenfolio.com/xisha/h1D468115#h1d468115.



CHUYẾN CÔNG TÁC  BÍ MẬT THÁNG 6/1937


Nguồn: Uỷ ban địa danh tỉnh Quảng Đông [Guang dong sheng di ming wei yuan hui], Sưu tập tư liệu về địa danh các đảo ở Nam Hải [Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian], Nhà xuất bản bản đồ Quảng Đông [Guangdong sheng di tu chu ban she], 1987, p.289.

-----------------------------
Về tác giả: François-Xavier Bonnet là một nhà địa lí và một nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại Pháp (Irasec). Bên cạnh nhiều bài khác, ông đã xuất bản, "“ Geopolitics of Scarborough Shoal” (Địa chính trị bãi cạn Scarborough), tài liệu thảo luận Irasec ngày 14 tháng 11 năm 2012,



[1] Bài viết này đã được trình bày tại hội nghị biển Đông Nam Á (biển Đông), Trung tâm Luật Ateneo, Makati, 27 tháng 3 năm 2015.
[2]  Samuels, Marwyn S, Contest for the South China Sea, New York: Methuen, 1982, p.53
[3] Thất thập niên đại số 3 tháng 3/1973 được Hungdah Chiu and Choon-Ho Park trích dẫn trong, Legal Status of the Paracel and Spratly islands, Ocean Development and International Law, 1975, p. 25
[4] Han Zhen Hua, Lin Jin Zhi and Wu Feng Bin (edit), Sưu tập các tài liệu lịch sử về các đảo ở Nam Hải của chúng ta [Wo guo nan hai zhu dao shi liao hui bian/我国南海诸岛史料汇编 : Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên] , Dong fang Chu ban she [東方出版社]: Đông phương xuất bản xã, 1988, p.210.
[5] Uỷ ban địa danh tình Quảng Đông [广东地名委员会/Guangdong sheng di ming wei yuan hui: Quảng Đông tỉnh địa danh uỷ viên hội], Sưu tập tư liệu về địa danh các đảo ở Nam Hải [南海诸岛地名资料汇编/Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian: Nam hải chư đảo đia danh tư liệu hối biên], Nhà xuất bản bản đồ tỉnh Quản Đông [广东省地图出版社/Guangdong sheng di tu chu ban she: Quảng Đông tỉnh địa đồ xuất bản xã], 1987,
[6] Samuels, p.53
[7] Uỷ Ban, 1987, p.290
[8] Uỷ Ban, 1987, p.290
[9]  Uỷ Ban, 1987, p.291

No comments: