Sunday, June 14, 2015

Có thể ngăn chặn Trung Quốc được không?

Có thể ngăn chặn Trung Quốc được không?

Can China Be Contained?

Andrew Browne
WSJ (12/6/2015)


Khi căng thẳng với Trung Quốc tăng lên, các nhà tư tưởng chính sách đối ngoại của Mĩ đang đào bới lại những ý tưởng thời Chiến tranh Lạnh - và đặt câu hỏi về sự đồng thuận có từ lâu cho việc quan hệ với Bắc Kinh

For many Americans today, the promise of being diplomatic partners with China seems more remote than ever before.
Hiên nay đối với nhiều người Mĩ, hứa hẹn sẽ là một đối tác ngoại giao với TQ thật xa vời hơn bao giờ hết. ẢNH: Corbis


Viết vào năm 1967, lúc đỉnh cao của Chiến Tranh Lạnh, Richard Nixon nêu lên một tham vọng mới của Mĩ: "thuyết phục Trung Quốc rằng họ phải thay đổi”.

Ông viết “Với tầm nhìn lâu dài, chúng ta đơn giản là không thể kham được việc để Trung Quốc ở ngoài gia đình của các quốc gia mãi mãi, ở đó họ nuôi dưỡng cái ngông của họ, ấp ủ căm thù và đe dọa các nước láng giềng.” Bốn năm sau đó, khi ngồi vào Nhà Trắng, Nixon là kiến trúc sư mở ra một “lối mở cho Trung Quốc”, hứa hẹn sẽ chuyển nước cộng sản khổng lồ này thành một đối tác ngoại giao, một đối tác sẽ thừa nhận các giá trị của Mĩ và có thể cả hệ thống dân chủ của Mĩ.

Đối với nhiều người Mĩ hiện nay, khi thấy chính quyền Chủ tịch Tập Cận Bình trấn áp mạnh bạo bất đồng chính kiến trong nước đồng thời thách thức quyền lãnh đạo của Mĩ ở Châu Á, lời hứa hẹn đó có vẻ xa vời hơn bao giờ hết. Trong cuốn sách mới xuất bản “The Hundred-Year Marathon” (Cuộc chạy Marathon 100 năm), Michael Pillsbury - một chuyên gia Châu Á và là quan chức Lầu Năm Góc dưới thời Tổng thống Ronald Reagan và George H.W. Bush - viết rằng Trung Quốc “đã không đáp ứng hầu như tất cả những kì vọng màu hồng của chúng ta.”

Chính sách đối ngoại của Mĩ đã đi tới một bước ngoặt, khi các nhà phân tích từ khắp các xu hướng chính trị  bắt đầu đào bới lại các lập luận thời Chiến Tranh Lạnh và nói về sự cần thiết cho một chính sách ngăn chặn Trung Quốc. Đồng thuận vững chắc từng có của Washington trước lợi ích của “việc quan hệ (engagement) có tính xây dựng” với Bắc Kinh đã bị đổ vở.

Niềm xác tín rằng quan hệ là con đường hiện thực duy nhất để khuyến khích tự do hóa ở Trung Quốc đã kéo dài qua tám đời tổng thống Mĩ, Cộng hòa và Dân chủ đều vậy. Jimmy Carter để lại chính sách của Nixon cho Ronald Reagan; George W. Bush cho Barack Obama.

President Richard Nixon, right, toasts Chinese Prime Minister and Foreign Minister Zhou Enlai during a banquet in Hangzhou, China, on Feb. 27, 1972.

Tổng thống Richard Nixon, phải, nâng cốc chúc mừng Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Chu Ân Lai trong một bữa tiệc ở Hàng Châu, Trung Quốc, vào ngày 27 tháng 2, 1972. ẢNH: Corbis*

Sự rối loạn trong chính sách của Mĩ đã đặc biệt nổi rõ trong những tháng gần đây. Một luồng các báo cáo tư vấn chưa từng có từ các trung tâm học thuật và các nhóm tư vấn hàng đầu đã đề nghị tất cả mọi thứ từ lấn trả về quân sự chống lại Trung Quốc cho tới các nhượng bộ sâu rộng. Các đơn thuốc khác nhau, nhưng điểm khởi đầu của chúng đều như nhau: bi quan về tiến trình hiện tại trong quan hệ Mĩ-Trung.

Sự thay đổi tâm trạng ở Washington có thể kết thúc cơ bản giống y như sự thay đổi đến trên toàn nước Mĩ ngay sau Thế Chiến II, khi chợt nhận ra rằng Liên Xô sẽ không tiếp tục là một đồng minh. Đó là khi nhà ngoại giao huyền thoại và là nhà tư tưởng chính sách Mĩ George F. Kennan hình thành nên kế hoạch ngăn chặn.

Trong một bài báo năm 1947 trên tạp chí Foreign Affairs, ông đã viết rằng Mĩ “trong khả năng mình phải nâng căng thẳng lên thật lớn mà chính sách Liên Xô phải hoạt động dưa trên đó, để buộc Kremlin phải có mức độ tiết chế và thận trọng lớn hơn mức họ đã tuân theo trong những năm gần đây, và theo cách này thúc đẩy các xu hướng vốn cuối cùng phải tìm lối thoát qua việc bẽ gãy hoặc việc làm nhũn dần sức mạnh của Liên Xô.” Chiến lược của Kennan – hút máu Liên Xô thông qua việc kháng cự không khiêu khích – tạo ra sự thoải mái cho người Châu Âu vốn lo sợ rằng họ phải đối mặt với một lựa chọn khắc nghiệt giữa chiến tranh và đầu hàng.

Nỗi lo tương tự về những hành động và ý đồ của Trung Quốc hiện nay đang có trong lòng rất nhiều người Châu Á. Bạn bè và đồng minh của Mĩ trong khu vực đang đổ xô đến phía Mĩ để tìm kiếm sự bảo vệ khi Trung Quốc của Tập Cận Bình tăng cường hải quân, đưa các hạm đội của họ đi xa hơn vào đại dương xanh và đẩy mạnh chủ quyền lãnh thổ. Trong điều đúng là động thái quyết đoán mới nhất báo động khu vực, Trung Quốc hiện bồi đắp các rạn san hô nhỏ ở Biển Đông để tạo ra các đường băng, có vẻ cho các máy bay quân sự.

Hoa Kì đang chống lại. Dấu ấn ‘chuyển trục’ sang Châu Á của của Tổng thống Obama – đề ra vừa để làm yên lòng bạn bè đang lo lắng của Mĩ vừa để thừa nhận tầm quan trọng chiến lược lớn của khu vực trong thế kỉ 21 - là đưa tàu chiến tiên tiến tới Singapore, thủy quân lục chiến đến Úc và các cố vấn quân sự tới Philippines. Nhật Bản, đồng minh chủ chốt của Mĩ ở Châu Á, được tái vũ trang và đã điều chỉnh hiến pháp hòa bình sau chiến tranh cho phép quân đội của họ đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực. Mục đích của phần lớn các hoạt động này là để bảo vệ sự độc lập của các nước Châu Á nhỏ hơn vốn đang lo sợ họ có thể không có lựa chọn nào khác ngoài việc rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc và khuất phục trước các tham vọng trong lãnh thổ của họ - nói cách khác, là đầu hàng.

Chinese leader Deng Xiaoping accepts a cowboy hat at a rodeo near Houston, Texas, during a tour of the U.S. in 1979. Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhận một chiếc mũ cao bồi ở một rodeo (ngày hôi súc vật) gần Houston, Texas, trong một chuyến du lịch  Mỹ vào năm 1979. ẢNH: Wally McNamee / Corbis

Về phần mình, Trung Quốc dứt khoát tin  rằng Hoa Kì đang theo đuổi một chính sách ngăn chặn. Kevin Rudd, cựu Thủ tướng Australia (và bản thân là một chuyên gia về Trung Quốc), tóm tắt nhận thức của Bắc Kinh về mục tiêu Mĩ trong năm điểm trong một nghiên cứu gần đây của Harvard: cô lập, ngăn chặn, làm suy giảm, gây chia rẻ nội bộ và phá hoại sự lãnh đạo chính trị của TQ.

Chắc chắn những căng thẳng mới trong quan hệ Mĩ-Trung không phải là điều gì giống như việc phải nhìn chằm chằm thời Chiến Tranh Lạnh vốn vướng bận tâm trí Châu Âu trong nhiều thập kỉ, khi xe tăng của NATO và của Hiệp ước Warsaw đối mặt nhau trên lằn ranh mà không bên nào dám vượt qua. Nhưng ở một khía cạnh quan trọng, lịch sử đang tự lặp lại: cả Trung Quốc lẫn Mĩ đều đã bắt đầu xem nhau không phải là đối tác, đấu thủ cạnh tranh hoặc đối thủ mà là kẻ thù.

Việc TQ tăng thêm tên lửa và hải quân cũng như phát triển các khả năng mới về chiến tranh mạng và không gian là nhằm thẳng vào việc ngăn chặn không để quân đội Mĩ can thiệp vào bất kỳ cuộc xung đột nào ở Châu Á. Trong khi đó, nhiều dự án tuỳ hứng của Lầu Năm Góc - công nghệ chiến tranh các vì sao (Star Wars) như laser và các hệ thống vũ khí tiên tiến và lasers như máy bay ném bom tầm xa - đang được phát triển với Trung Quốc trong đầu.

Thế thì cụ thể, Mĩ nên làm gì? Trong một trong những báo cáo diều hâu nhất từ các báo cáo của các nhóm chuyên gia tư vấn gần đây, Robert D. Blackwill, cựu phó cố vấn an ninh quốc gia Mĩ và đại sứ tại Ấn Độ dưới thời Tổng thống George W. Bush, và Ashley J. Tellis, nhà nghiên cứu cao cấp tại Carnegie Endowment for International Peace cũng từng là nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Bush, viết rằng việc quan hệ với Trung Quốc đã làm nhiệm vụ làm đối thủ cạnh tranh mạnh lên.

Hai ông cho rằng đã tới lúc cho một chiến lược mới: quan hệ ít và  “cân bằng” nhiều đảm bảo “mục tiêu trung tâm” là vị trí đứng đầu toàn cầu tiếp tục của Mĩ. Ngoài những việc khác, Mĩ nên tăng thêm quân ở Châu Á, chặn đứt việc Trung Quốc tiếp cận với công nghệ quân sự, đẩy nhanh tiến độ triển khai tên lửa phòng thủ và tăng khả năng tấn công mạng của Mĩ.

Đối với Michael D. Swaine, cũng thuộc Carnegie Endowment, đây là một dạng công thức cho một cuộc Chiến Tranh Lạnh khác, hoặc tệ hơn. Ông phát thảo một cách giải quyết sâu rộng, theo đó Mĩ sẽ nhường đi vị trí đứng đầu ở Đông Á, biến phần lớn khu vực thành một vùng đệm được kiểm soát bởi một sự cân bằng các lực lượng, gồm cả lực lượng từ một Nhật Bản đã tăng cường. Tất cả các lực lượng nước ngoài sẽ rút khỏi Hàn Quốc. Và Trung Quốc sẽ đưa ra đảm bảo rằng sẽ không tiến hành hoạt động thù địch chống lại Đài Loan, mà họ xem là một tỉnh li khai.

Những sắp xếp như vậy, ngay cả nếu xảy ra, sẽ mất hàng thập kỉ để triển khai. Trong khi đó, David M. Lampton, giáo sư Trường Nghiên Cứu Quốc Tế Cao Cấp Đại Học Johns Hopkins, cảnh báo quan hệ Mĩ-Trung đã đạt đến đỉnh điểm. “Nỗi sợ tương ứng của chúng ta gần vượt quá hi vọng của chúng ta hơn bất cứ lúc nào từ khi bình thường hóa,” ông nói trong một bài phát biểu gần đây.

Phương Tây đã ở vị thế này trước đây. Lạc quan về triển vọng chuyển một nền văn minh xa xưa qua quan hệ, tiếp theo sau là sự vỡ mộng sâu đậm, đã là khuôn mẫu từ bao giờ từ khi các nhà truyền đạo dòng Tên đầu tiên tìm cách chuyển người Trung Quốc sang đạo Thiên Chúa. Những phái viên này chấp nhận vận mũ áo quan lại Trung Hoa, để râu dài và thậm chí diễn đạt sứ điệp Tin Mừng bằng từ ngữ Nho giáo để làm cho nó dễ được chấp nhận hơn. Linh mục Đức Adam Schall thế kỉ 17 đã đi xa tới mức trở thành nhà thiên văn học đứng đầu của triều Thanh. Nhưng ông đã bị thất sủng, và các linh mục dòng Tên này sau đó đã bị trục xuất.

Thất vọng tại Mĩ hiện nay đã lên cao bởi thực tế là việc quan hệ với Trung Quốc đã hứa hẹn rất nhiều và tiến triển cho đến nay. Giao thương và công nghệ đã làm Trung Quốc thay đổi vượt quá bất cứ điều gì mà Nixon đã có thể tưởng tượng ra, và hai nước là đối tác thương mại lớn thứ hai của nhau. Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mĩ. Hơn 250 000 sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học Mĩ.

Nhưng khoảng cách về ý thức hệ đã không thu hẹp chút nào và bây giờ TậpCận Bình đã quay ngoặt chống phương Tây. Mao Trạch Đông đã  quyết định táo bạo ra thỏa thuận với Nixon, đủ tự tin để ôm lấy tư bản Mĩ ngay cả khi đang thúc đẩy chương trình quá khích về Cách mạng Văn hóa. Sau đó, Đặng Tiểu Bình đưa ra một sự cân bằng thực dụng giữa các cơ hội về liên kết kinh tế với phương Tây và các nguy hiểm do luồng tư tưởng phương Tây đi vào gây ra. “Khi mở cửa sổ, thì ruồi muỗi cũng theovào,” ông nhún vai.

Bây giờ, Tập Cận Bình đang hung hăng tiêu diệt ruồi nhặng. Một luật mới được đề xuất sẽ đặt toàn bộ khu vực phi lợi nhuận nước ngoài dưới sự quản lí của công an, thực tế là là coi các nhóm này như kẻ thù tiềm năng của nhà nước. Báo chí nhà nước chửi bới “các lực lượng thù địch nước ngoài” và cảm tình viên của họ trong nước. “Tài Liệu số 9” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cấm thảo luận về dân chủ phương Tây ở các trường đại học. Và khi Tập Cận Bình cổ vũ văn hoá truyền thống Trung Quốc, chính quyền ở Ôn Châu, một thành phố ven biển có rất nhiều người theo đạo Thiên Chúa - được gọi là “Jerusalem mới” của Trung Quốc, đã phá đổ thánh giá trên nóc các nhà thờ mà họ xem như là biểu tượng không mong muốn về ảnh hưởng phương Tây.

Phản ứng dữ dội chống lại phương Tây mở rộng vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc. Trong nhiều thập kỉ, Trung Quốc chấp nhận vai trò của Mĩ như một cảnh sát khu vực để duy trì hòa bình và giữ cho các tuyến đường biển thông suốt. Nhưng năm ngoái ở Thượng Hải, Tập Cận Bình tuyên bố rằng “chính người Châu Á phải điều hành công việc của Châu Á, giải quyết các vấn đề của khu vực Châu Á và duy trì an ninh của Châu Á”.

Washington cảm thấy có một loại cảm giác bị phản bội. Xét cho cùng, thị trường mở cửa của Mĩ làm cho việc Trung Quộc nâng lên thành nền kinh tế dựa trên xuất khẩu lớn thứ hai thế giới diễn ra suôn sẻ, và hiện nay hai nền kinh tế phụ thuộc nhau sâu rộng.

Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau nhất thiết sẽ ngăn chặn xung đột. Châu Âu trướcThế chiến I cũng quyện chặt với nhau qua thương mại và đầu tư.

Ngay cả cộng đồng doanh nghiệp Mĩ, từng ủng hộ trung thành nhất Bắc Kinh ở Washington, cũng đã mất một số nhiệt tình về việc quan hệ. James McGregor, cựu chủ tịch Phòng Thương Mại Mĩ tại Trung Quốc và bây giờ là chủ tịch APCO Worldwide Trung Quốc, nhà tư vấn kinh doanh, rút lại việc giúp thuyết phục các hiệp hội thương mại của Mĩ vận động cho Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO), điều đó xảy ra vào năm 2001.

Sự thống nhất về mục đích đó, ông nói “đã vỡ vụn từ đó.” Hiện nay, “tất cả đều tin rằng Trung Quốc ở đó để lừa đảo họ.”

Dù có các nỗi lo của Trung Quốc, chính quyền Obama vẫn còn rất ủng hộ việc quan hệ. Thỏa thuận cấp cao năm ngoái về biến đổi khí hậu đã cho thấy rằng sự hợp tác là vẫn có thể xảy ra. Trước hội nghị thượng đỉnh ở Mĩ dự định vào tháng 9, hai nước đang hoàn tất một thỏa thuận thương mại song phương đầy tham vọng. Và thường được chỉ ra rằng không một vấn đề đơn lẻ nào trên thế giới, từ cướp biển tới ô nhiễm, có thể được giải quyết mà không có nỗ lực phối hợp của hai nước.

Tuy nhiên, trong một điệu nhảy ngày càng lúng túng, chính quyền Obama đang cố gắng duy trì chính sách quan hệ này trong khi cũng gia tăng các lựa chọn quân sự ở Châu Á. Trung Quốc cũng đang chơi trò tương tự. Và chưa rõ cả hai bên sẽ có thể tiếp tục được bao lâu trước khi có một cuộc chạm trán, do sơ suất hoặc do chủ định.

Chính Obama đôi khi cũng tấn công tư thế đối đầu với Trung Quốc. Trong cố gắng thúc đẩy một khu vực thương mại tự do Châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn thông qua một Quốc Hội chống đối, ông đã viện dẫn mối đe dọa Trung Quốc. “Nếu chúng ta không viết ra các quy tắc thì Trung Quốc sẽ vạch ra quy tắc cho khu vực này,” ông nói với The Wall Street Journal hồi tháng 4.

Ông cũng đã theo đuổi một chiến dịch – vô vọng - ngăn chặn các đồng minh như Anh và Úc không ký kết vào ngân hàng phát triển khu vực của Trung Quốc. Mặc dù ngân hàng này sẽ giúp cung cấp cơ sở hạ tầng rất cần thiết, Nhà Trắng diễn giải nó như một phần của một nỗ lực làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Mĩ trong tài chính toàn cầu.

Về phần mình, Trung Quốc tin rằng Mĩ sẽ không bao giờ chấp nhận tính hợp pháp của một chính phủ cộng sản.

Tập Cận Bình đã đề xuất một “mô hình quan hệ mới của hai cường quốc lớn”, được đề ra nhằm phá vỡ khuôn mẫu chiến tranh qua nhiều thời đại, nó xảy ra khi một cường quốc đang lên thách thức một cường quốc đang tại vị. Nhưng Mĩ đã bác bỏ, không muốn chấp nhận một công thức không những giả định rằng hai nước là ngang hàng mà dường như còn đặt hai nước trên cùng một mặt bằng đạo đức.

Một cách thích hợp, có lẽ, những căng thẳng đang đi đến giai đoạn tồi tệ phải can thiệp ở quần đảo Trường Sa, một quần đảo gồm các rạn đá ngầm và bãi cát trong Biển Đông nguy hiểm đến mức các hải đồ cũ của Hải Quân Anh đánh dấu toàn bộ khu vực là “Khu vực nguy hiểm” (Dangerous Ground).

Trong nghĩa địa này của những người đi biển, Trung Quốc đã ồ ạt mở rộng nhiều rạn san hô qua bồi đắp; một rạn có một đường băng đủ dài cho máy bay quân sự lớn nhất của Trung Quốc có thể đáp xuống. Các nước láng giềng của Trung Quốc coi chúng như là các tiền đồn cho việc Trung Quốc cuối cùng sẽ thu tóm toàn bộ Biển Đông. Lầu Năm Góc biểu đạt chúng như là một mối đe doạ cho quyền đi lại trên biển không bị thách thức của Hải quân Mĩ

Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Ash Carter đang xem xét việc biểu dương lực lượng - và đang chịu áp lực chính trị để làm như vậy. Tháng trước, Thượng nghị sĩ Bob Corker, Chủ tịch đảng Cộng hòa trong Ủy ban đối ngoại Thượng viện, phàn nàn rằng phản ứng của Mĩ đối với việc xây dựng đảo là quá thụ động. “Tôi không thấy Trung Quốc phải trả giá gì cho các hoạt động của họ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông,” ông Corker nói. “Chẳng có gì cả. Trên thực tế, tôi thấy chúng ta đang phải trả giá”.

Không bên nào muốn có chiến tranh. Tập Cận Bình không chống phương Tây theo cách của Tổng thống Nga Vladimir Putin, và cho đến nay, ông ta chưa hành động vội vàng như Putin với việc tóm lấy lãnh thổ ở Ukraina. Trung Quốc vẫn cần thị trường và bí quyết trỗi dậy của Mĩ. Một cuộc chiến tranh với Mĩ sẽ là một thảm họa kinh tế cho Trung Quốc.

Quan hệ Mĩ-Trung từng vượt qua giông bão trước đây. Nhớ lại những ngày sau khi quân đội Trung Quốc tấn công vào sinh viên ủng hộ dân chủ ở Quảng Trường Thiên An Môn năm 1989, khi đó hợp tác giữa hai nước đã đi vào đóng băng sâu đậm. Nhưng Tổng thống George H.W. Bush tính toán rằng quan hệ Mĩ-Trung là quá quan trọng để hi sinh, và ông đã nhanh chóng gửi phái viên đến Bắc Kinh để đảm bảo rằng nó vẫn không bị sứt mẻ.

Hiện nay, chắc chắn, tính toán đó vẫn không có ít hơn sức nặng. Hơn nữa, việc cố ngăn chận Trung Quốc sẽ vô cùng tốn kém: Một trong hai nước không thể thành công về mặt kinh tế mà không có nước kia. Chiến lược ngăn chặn Liên Xô của Kennan đã có tác dụng vì Liên Xô yếu về kinh tế và hầu như không có các ràng buộc thương mại với Mĩ. Nhưng Trung Quốc ngày nay là một cường quốc kinh tế và ngân sách quân sự hai chữ số của họ được một cơ sở công nghiệp sâu rộng và đa dạng chống đỡ.

Tuy nhiên, đối nghịch với các điều thực tế này là sự kiện rằng quan hệ Mĩ-Trung đã mất raison d'être (lí do tồn tại) chiến lược: Liên Xô, mối đe dọa chung vốn đã đưa hai nước lại với nhau [đã không còn].

Việc đối kháng với Moscow là logic thúc đẩy Nixon mở cửa cho Trung Quốc. Nhưng ngay cả Nixon, một người hiện thực chủ nghĩa cứng đầu vốn chú tâm vào việc cân bằng quyền lực, cũng không chắc việc mở cửa cho Trung Quốc cuối cùng sẽ diễn ra như thế nào. Như Nixon nói với nhà báo quá cố William Safire của tờ New York Times không lâu trước khi ông mất vào năm 1994, “Chúng ta có thể đã tạo ra một Frankenstein (quái vật giết chết người tạo ra nó -ND)”.

----------------------------------
* Có thê tác giả nhầm, Chu Ân Lai chỉ kiêm nhiệm BTNG trong những năm đầu (1949-1958) còn năm 1972 BTNG TQ là Cơ Bằng Phi

No comments: