Tuesday, May 5, 2015

Các đảo nhỏ: chìa khoá để sở hữu Biển Đông

Các đảo nhỏ, chìa khoá để sở hữu Biển Đông

Bill Hayton
BBC News (03 tháng 5 năm 2015)


(Bản dịch đã dăng trên AnhBaSam ngày 6/5/2015)


Đông Nam Á nói rằng họ đang “quan ngại thật sự” về việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo ở những phần tranh chấp ở Biển Đông.


Đáp lại, Trung Quốc nói rằng họ “quan ngại sâu sắc” về tuyên bố các nước Đông Nam Á.


Đông Nam Á nói hành động của Trung Quốc đã “xói mòn lòng tin và sự tin cậy và có thể làm phương hại hòa bình, an ninh và ổn định”.


Trung Quốc đáp trả rằng những gì họ làm là “hoàn toàn hợp pháp và không có gì phải thắc mắc”.


Tình hình tranh chấp Biển Đông đang trở nên nghiêm trọng chăng?


Trung Quốc đã phản ứng giận dữ với tuyên bố chính thức của 10 nước thuộc Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á công bố hôm Thứ Hai, chỉ trích chương trình xây đảo to lớn của họ ở quần đảo Trường Sa.


Trung Quốc đang sử dụng các tàu nạo vét và các đội xây dựng để biến ít nhất sáu rạn san hô thành các căn cứ lớn với các bến cảng.


Một đảo sẽ có một đường băng dài 2 900 mét (1,8 dặm)


Có mối quan ngại đang tăng rằng Trung Quốc sẽ sử dụng các căn cứ  này làm bàn đạp để khẳng định quyền kiểm soát đối với toàn bộ Biển Đông.


Trung Quốc nói họ chỉ bảo vệ các quyền lãnh thổ và đội tàu đánh cá của họ.


Có vẻ kì lạ là một số hòn đảo nhỏ nhất trên hành tinh hiện nay lại nằm ở trung tâm của một trong những tranh chấp lãnh thổ lớn nhất thế giới.


Nếu chỉ thấp hơn một vài mét thì chúng thậm chí không thỏa điều kiện là đảo nhưng vì chúng nhô khỏi mặt nước Biển Đông, các nước có thể yêu sách chúng, và quan trọng hơn, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên trong vùng biển xung quanh chúng.


H1

Trung Quốc đang tiến hành bồi tạo đất ở quần đảo Trường Sa


Ai kiểm soát các đảo sẽ có yêu sách vững mạnh nhất đối với 1,4 triệu dặm vuông của Biển Đông, tất cả tôm cá trong đó và dầu hỏa bên dưới nó.


Đó là lí do tại sao, đối với sáu quốc gia xung quanh Biển Đông (bảy nếu tính Đài Loan là một nước riêng),  khoảng chừng 250 đá, rạn san hô và đảo này, với tổng diện tích chỉ sáu dặm vuông, lại đáng với tất cả tiền bạc và công sức họ bỏ ra cho chúng.


Nhưng thực sự nhiều hơn cả thế nữa.


Hai tranh chấp


Để hiểu vì sao tàu và máy bay của Mĩ và Trung Quốc đang guờm nhau ở Biển Đông, điều quan trọng là cần phải hiểu rằng thật ra có hai tranh chấp khác nhau đang diễn ra ở đó.


Một là về nước nào sở hữu các thể địa lý rải rác trong vùng biển này.


Tranh chấp kia, quan trọng hơn, là về tương lai của hệ thống quốc tế đã và đang điều tiết thế giới từ  khi Thế Chiến thứ hai kết thúc đến nay.


Các nước nên theo những quy định quốc tế nào và ai sẽ làm ra các quy định đó?


H1


Chính sự chồng chéo giữa hai tranh chấp này - giữa câu hỏi nước nào chiếm đóng những đảo nhỏ nào đúng lẽ và câu hỏi những nước nào thiết lập các quy tắc của thế giới - làm cho tranh chấp Biển Đông rất nguy hiểm.


Trung Quốc tự tin rằng mình là chủ sở hữu đúng lẽ của hầu như toàn bộ Biển Đông.


Kết quả là, các nước Đông Nam Á đối thủ có yêu sách - Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei và Philippines - đang cố gắng củng cố vị thế của mình bằng cách lôi kéo các cường quốc khác - không chỉ Mĩ là chính mà còn cả Nhật Bản và Ấn Độ - về phía họ.


Mĩ không đặc biệt quan tâm đến việc nước nào kiểm soát đảo nào, nhưng họ đang bị lôi kéo vào các tranh chấp này vì lợi ích rộng lớn hơn của mình.


Nhà chức trách ở Bắc Kinh nhìn mọi thứ theo cách ngược lại.


Họ nghĩ rằng Mĩ, lo lắng muốn vẫn còn là cuờng quốc hàng đầu thế giới, đang tụ họp các nước Đông và Đông Nam Á để kềm chế một Trung Quốc đang trỗi dậy.


Nhưng điều mà Mĩ và nhiều quốc gia khác quan ngại, không phải là sự trỗi dậy của Trung Quốc, như đang diễn ra, mà là những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm định đặt lại luật pháp quốc tế cho phù hợp với lợi ích riêng của họ ở Biển Đông.


Kết quả là, Mĩ cùng các đồng minh và bạn bè  đang bắt tay với nhau “giữ nguyên hàng ngũ”. Mối nguy hiểm là ở chỗ đó.


Thách thức quốc tế


Khi Trung Quốc cố mở rộng quyền kiểm soát của mình đối với vùng nước của biển này (như là đối tượng khác với các đảo), họ đang thách thức cả các nước trong khu vực lẫn hệ thống quốc tế.


Theo luật quốc tế hiện hành - quy định trong Công Ứớc Liên Hiệp Quốc về Luật biển - một nước chỉ được sở hữu một mảnh biển nếu nuớc đó sở hữu vùng đất liền kề với nó.


Một nước sở hữu một đảo cũng “sở hữu” 12 hải lí đáy biển xung quanh đảo và có các quyền đối với tài nguyên (nhưng không với lãnh thổ) lên đến 200 hải lí xung quanh.


Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc và các doanh nghiệp nhà nước của họ (đặc biệt là các công ty dầu mỏ và các doanh nghiệp nghề cá) đang cố khẳng định quyền sở hữu đối với chính Biển Đông, cùng với đáy biển và các tài nguyên của nó, cách xa bờ biển Trung Quốc hàng trăm dặm.


Đây là một thách thức đối với các nước xung quanh Biển Đông vốn có những yêu sách của riêng họ, đối với Mĩ mà vai trò như một cường quốc thương mại và quân sự toàn cầu phụ thuộc vào quyền đi lại không bị ngăn trở qua các biển trên thế giới và đối với mọi quốc gia khác vốn tin vào các quy định hiện hành của luật quốc tế.


H1

Pháo đài Trung Quốc tại Đá Vành Khăn (Mischief Reef) trong quần đảo Trường Sa đang tranh chấp


Họ nói chung chung rằng biển từ bờ trở ra hơn 12 hải lí không thuộc về bất cứ ai và do đó ai cũng được tự do sử dụng theo bất kì cách nào họ thấy phù hợp. (Đúng ra phức tạp hơn thế, nhưng đó là nguyên tắc cơ bản.)


Nhật Bản mỗi sáu giờ cần một tàu chở dầu hoặc khí vượt qua Biển Đông để giữ cho hoạt động kinh tế tiếp tục; tương tự Hàn Quốc cũng phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng.


Cả hai nước cũng có mối quan ngại khác về cách mà Trung Quốc đang trỗi dậy.


Nhật Bản có tranh chấp riêng với Trung Quốc đối với quần đảo Senkaku / Daioyu, thấy có cùng nỗi niềm với Việt Nam và Philippines nên đã bắt đầu cung cấp cả với tàu tuần duyên cùng các thiết bị khác và đào tạo để giúp họ bảo vệ yêu sách biển của họ.


Hàn Quốc ít lớn giọng hơn, nhưng cũng quan ngại và cũng đang cung cấp vũ khí cho Philippines và Indonesia.


Ấn Độ không phụ thuộc quá nhiều vào Biển Đông, nhưng sợ hậu quả xấu nếu Trung Quốc chi phối châu Á.


Ấn Độ có hai nơi tranh chấp với Trung Quốc ở khu vực biên giới trên dãy núi Himalaya. Họ cũng lo lắng về mối quan hệ ngày càng tăng của Trung Quốc với các nước xung quanh Ấn Độ Dương nên đang phát triển quan hệ an ninh với Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản và Australia (cùng với những nước khác) để đáp ứng.


Tranh chấp thế kỉ 20


Nhà chức trách Trung Quốc nói rằng họ là “chủ sở hữu” lịch sử Biển Đông “từ thời xa xưa”.


Chính quyền Trung Quốc chỉ thực sự quan tâm đối với Biển Đông kể từ đầu thế kỉ 20.


Ngoại trừ một giai đọan rất ngắn, trong toàn bộ lịch sử có ghi chép lại (ngoại lệ là giai đoạn 30 năm 1400-1430, trong giai đoạn đó nhưng kẻ được gọi là đô đốc thái giám, trong đó có Trịnh Hòa, đã đi thuyền xa tới tận Đông Phi), nhà cầm quyền Trung Quốc hầu như chưa đủ khả năng để kiểm soát bờ biển của chính họ nói chi tới các đảo cách xa hàng trăm dặm.


___________________________________
Trịnh Hoà: Đô đốc thái giám


Trịnh Hoà sinh năm 1372  ở tỉnh nghèo Vân Nam trong một gia đình Hồi giáo gốc Trung Á, từng chiến đấu cho quân Mông Cổ. Bị quân nhà Minh bắt được, ông đã bị hoạn lúc lên 10 tuổi.


Ông đã được phái đến phục vụ hoàng tử nhà Minh, và quá nổi bật trong chiến đấu đến mức đã ngoi lên đến chức đô đốc.


Hạm đội của ông lớn hơn  toàn bộ các đội tàu của châu Âu gộp lại, nổi trội với các báu thuyền (宝船: treasure ship) khổng lồ dài 400ft (122 m) và rộng 160ft (50m).


Ông đi lại khắp vùng Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, và đến Vịnh Ba Tư và Châu Phi, tạo ra nhiều bản đồ hàng hải mới, và truyền bá văn hóa Trung Quốc.


Ông đã mở ra các tuyến đường thương mại đến nay vẫn đang lớn mạnh, và nắm được quyền kiểm soát chiến lược đối với các nước mà hiện nay một lần nữa đang nhìn Trung Quốc như  là lãnh đạo không tranh cãi của khu vực.


___________________________________


Phiên bản lịch sử này không phải là phiên bản giảng dạy trong các nhà trường Trung Quốc.


Điều này đã cố kết, nhưng ý thức sở hữu không biện giải được về mặt lịch sử là cái đang đặt Trung Quốc lên tiến trình va chạm với các nước láng giềng và Hoa Kì.


Đó là lí do tại sao Trung Quốc ứng xử kẻ cả khi đưa giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp chẳng hạn.


Để tự bảo vệ mình chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc, các nước đang hình thành các quan hệ an ninh mới.


Những lợi ích chồng chéo có tiềm năng biến một tranh chấp địa phương thành tranh chấp khu vực hoặc thậm chí tranh chấp toàn cầu.


Vào thời điểm có quá nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế, các tranh chấp ở Biển Đông có vẻ tương đối nhỏ - nhưng chúng có thể trở nên lớn rất nhanh.


Thay đổi hành vi này sẽ đòi hỏi các nước trong khu vực đi đến một sự hiểu biết tốt hơn về lịch sử có chung của Biển Đông.


Đó sẽ là điều khó, nhưng nó sẽ dễ dàng hơn so với việc leo thang xung đột và nguy cơ đối đầu siêu cường gia tăng.


Bill Hayton là tác giả của The South China Sea: The struggle for power in Asia (Biển Đông: Cuộc tranh giành quyền lực ở Châu Á), vừa  được nhà xuất bản Đại học Yale xuất bản.

No comments: