Lật tẩy Chiến lược thống trị Biển Đông của Trung Quốc
Revealed: China's Strategy to Dominate the South China Sea
Wilson VornDick
Với các tiết lộ về
việc bồi đắp có hệ thống và nhanh chóng của Trung Quốc hay việc ‘xây dựng đảo’
trên nhiều thể địa lí khắp Biển Đông, tranh chấp âm ỉ lâu nay ở Biển Đông dường
như gần tới chỗ sôi sục lên. Terriclaims,
viết tắt của việc bồi tạo lãnh thổ (territorial reclamation) là một thuật ngữ dùng
để mô tả các hoạt động bồi đắp của một quốc gia khi tìm cách duy trì hoặc mở rộng
lãnh thổ như là một phần của một tham vọng địa chính trị rộng lớn hơn. Nhiều nước
đã bồi tạo đất đai trong nhiều thiên kỉ, nhưng không có một nước nào tìm cách để
làm việc đó cách quá xa biên giới nước mình như Trung Quốc. Hơn nữa, kiểu cách ám
muội mà Trung Quốc tiến hành các hoạt động này trong Biển Đông là nguyên nhân
cho quan ngại.
Để hiểu lí do tại
sao terriclaims của Trung Quốc là
không bình thường thì việc xem xét một số dự án xây dựng của các nước khác là
điều có ích. Trung Quốc không đang xây một
đảo Palm hoặc nhiều đảo World như thành phố Dubai của nước United Arab Emirates (Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất).
Dự án bồi tạo đất nhiều tỉ USD của Dubai bắt đầu vào năm 2001 dự kiến nhiều quần
đảo chạy từ bờ biển United Arab Emirates tới Vịnh Iran (Ba Tư). Palm Jumeirah,
quần đảo gần đây nhất hoàn thành vào năm 2006 và được cấu tạo theo dạng một cây
cọ (palm), bao gồm các ngôi nhà sang trọng, các khu nghỉ dưỡng khác nhau, và một
đường monorail trãi dài nhiều dặm trên đất mới bồi tạo.
Trái lại, có vẻ rằng
các dự án xây dựng của Trung Quốc là một phần của việc tóm thu lãnh thổ rộng lớn
hoặc để làm cho yêu sách đường 9 vạch bị tranh cãi của Trung Quốc thành thực tế.
Những terriclaims này dường như là nỗ
lực mới nhất của Trung Quốc theo chiến thuật xâm lấn chậm rãi và có phương pháp
để khẳng định quyền kiểm soát Biển Đông, một chính sách bị gọi mỉa mai là ‘cắt
lát salami’ (tằm ăn dâu). Trong khi các hoạt động của Trung Quốc tại quần đảo
Trường Sa có thể chỉ thu hút sự chú ý của quốc tế mới gần đây, việc họ sử dụng
chiến thuật này không phải là điều mới.
Bồi tạo đất đai trong lịch sử Trung Quốc
Terriclaims là một nỗ lực mới của Trung Quốc để thiết lập lại
ranh giới biển trong Biển Đông, nhưng sự xuất hiện của chúng không làm các nhà
quan sát hoàn toàn bất ngờ. Đó là vì terriclaims
là hiện thân mới nhất của một lịch sử bồi tạo đất lâu dài ở Trung Quốc vốn lâu
nay được chính quyền các cấp của Trung Quốc cấp nguồn lực và hậu thuẫn. Trung
Quốc có một di sản về bồi tạo đất đai từ thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên, khi họ
sử dụng kỹ thuật nạo vét và bồi đắp để tạo ra Kênh Đại Vận Hà (Dà Yùn Hé/大运河). Thành phố cổ Tô
Châu có dạng giống như Venice được xây dựng trên đất do bồi đắp. Trong thời kì hiện
đại, Trung Quốc đã bồi tạo nhiều phần to lớn của Macao, Thượng Hải, và thậm chí
sử dụng cách bồi đắp đất trong việc mở rộng Sân Bay Quốc Tế Hong Kong mới gần
đây. Ngoài ra, các hoạt động bồi tạo đất đã được lồng vào việc quản trị quốc gia
của Bắc Kinh và trách nhiệm về các hoạt động bồi tạo đất đã lan đến tất cả các
cấp chính quyền. Thật vậy, bộ máy chính quyền của Trung Quốc có bốn tổ chức lớn
trông coi một hoặc nhiều khía cạnh của vấn đề bồi tạo đất đai: Bộ Tài Nguyên Đất
Đai, Bộ Tài Nguyên Nước, Bộ Bảo Vệ Môi Trường và Cục Hải Dương Quốc Gia (SOA).
Nhiệm vụ chính trị
và trọng tâm về biển của Cục Hải Dương Quốc Gia (guó jiā hǎi yáng jú 国家 海洋局: Quốc Gia Hải Dương Cục),
dưới quyền Cục trưởng Liu Cigui (刘赐贵: Lưu Tứ Quý), làm cho nó thành độc đáo trong
bốn cơ quan đó. SOA giữ vai trò lãnh đạo trong việc tổ chức lại hầu hết các tổ
chức dân sự và bán quân sự trên biển của Trung Quốc trong năm 2013. Điều này
trùng hợp với việc lập ra một nhóm tư vấn cấp cao mới về các vấn đề an ninh biển
của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị vào năm 2012 mà trưởng nhóm đầu tiên là Tập Cận
Bình. Bằng chứng này cho thấy SOA đang lãnh đạo công việc terriclaim theo chỉ đạo
từ các cấp cao nhất ở Bắc Kinh.
Trung Quốc cũng không phải là nước đầu tiên sử dụng việc bồi
đắp lấn biển ở Biển
Đông. Năm 1999, Malaysia đã xây dựng trên Bãi Thám Hiểm (Investigator) - nằm giữa
Philippines và Malaysia, một tòa nhà bê tông hai tầng cùng với một bãi đáp trực
thăng, trạm radar, và bến tàu. Đài Loan thực hiện các dự án lấn biển lớn trên đảo
Pratas trong năm 2007. Trung Quốc đã biến Đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa thành
đảo đất (terraformed) chứa một đường băng dài 2400 m, ba cảng, và các cơ sở của
Hải Quân và Không Quân. Tuy nhiên, Trung Quốc có vẻ không những đang bảo vệ yêu
sách của mình mà còn mở rộng thêm chúng với những dự án terriclaim lớn mới có ý
hướng độc đáo về mặt quân sự. Sự tiến triển của các điểm terriclaims cho việc xây đường băng, cơ sở vật chất kiên cố, kho chứa,
khu vực tập kết, và các kênh sâu cho tàu thuyền. Cơ sở hạ tầng về thông tin
liên tạc dân sự nâng cao, trạm nghiên cứu khoa học, hoặc các cơ sở phụ vụ đánh
cá không đòi hỏi một diện tích lớn như vậy và cũng không đòi hỏi phải làm hối hả
và thậm thụt như vậy. Các nhà quan sát Trung Quốc, chẳng hạn như Yoji Koda của
Nhật, cho rằng chỉ riêng việc bồi đắp (terriclaim)
tiềm năng ở Bãi Scarborough cũng có khả năng tạo ra một đảo gồm nhiều dặm vuông đất mới.
Ảnh hưởng toàn cầu
Terriclaims của Trung Quốc có thể có tác dụng đáng kể thứ hai và thứ
ba. Terriclaims, nếu được các
bên tranh chấp khác ở Biển Đông, ASEAN, hoặc của cộng đồng quốc tế rộng hơn thừa
nhận, có thể dẫn đến việc mất đi lãnh thổ to lớn trên biển nếu một terriclaim được hợp pháp hóa. Điều này
cũng có thể dẫn đến xung đột. Biển Đông đã chứng kiến xung đột về lãnh thổ
trong quá khứ, nhưng khả năng và ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc đã tăng lên
đáng kể. Đồng thời, chiến thuật này không nhất thiết chỉ giới hạn trong Biển
Đông, nó có thể được sử dụng ở các vùng ven biển thuận lợi khác. Hiện có hơn 150
quốc gia ven biển yêu sách hơn 36 % diện tích biển của thế giới. Các nước đất
thấp ven các Biển Caribbean, Baltic, Địa Trung Hải, Vịnh Iran, Châu Đại Dương
và Bắc Cực đều dễ bị terriclaim. Độ sâu lúc triều thấp nhỏ và sự gần gủi với
các nước ven biển khác tại các vùng ven biển giàu tài nguyên kề cận nhau này
làm terriclaim có thể thực hiện được, có lẽ, cũng mời gọi. Ngoài ra, Công Ước Liên Hiêp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, không có quy định nào nói
đến terriclaims. Các quy định trong
UNCLOS có thể diễn giải để thách thức hay bảo vệ terriclaims tốt nhất chỉ là
mơ hồ.[1]
Bất kể sự im lặng
tương đối của UNCLOS về vấn đề này, terriclaims
cần phải được nêu ra giải quyết. Nếu terriclaims
của Trung Quốc được hợp pháp hóa do việc cộng đồng quốc tế không có hành động,
điều này sẽ không những là phần thưởng cho hành vi của Bắc Kinh mà còn cung cấp
cho Trung Quốc quyền vô điều kiện để tiếp tục terriclaim ở các khu vực khác.
Quan trọng hơn, thừa nhận terriclaims
sẽ khuyến khích các nước khác làm theo sự đi đầu của Trung Quốc. Nếu không tìm ra
giải pháp, terriclaims sẽ tàn phá môi
trường biển và các khuôn khổ của nó. Ít nhất, ý hướng vì mục đích quân sự trong
terriclaims của Trung Quốc sẽ tiếp tục
gây khó chịu các bên tranh chấp khác.
Terriclaims trong tương lai
Nếu như sự mơ hồ
pháp lí không được loại bỏ hoặc terriclaims
của Trung Quốc không bị thách thức trực tiếp thì có thể kéo theo cuộc đua terriclaims giữa Trung Quốc và các bên
tranh chấp khác. Có hai câu trả lời mà cộng đồng quốc tế cần xem xét. Thứ nhất,
các quốc gia kí kết có thể duyệt lại UNCLOS để bao gồm terriclaims vào hoặc kèm thêm một hiệp định phụ tương tự như Hiệp Định
về Cá và Nguồn Cá năm 1995. Tuy nhiên, một bản sửa đổi sâu rộng hoặc phụ lục của
UNCLOS là khó xảy ra. Để cho một sửa đổi xảy ra, chắc chắn đòi hỏi phải có sự ủng
hộ của Bắc Kinh như là một thành viên của Hội Đồng Bảo An và nước đứng đầu khu
vực. Thứ hai, các quốc gia quan tâm có thể dập tắt terriclaims qua trọng tài hoặc Tòa Án Quốc Tế về Luật Biển (ITLOS)
hoặc Tòa Công Lí Quốc Tế hoặc thông qua một khuôn khổ rộng lớn hơn hay hiệp định.
Ngược lại, kiện tụng và trọng tài cũng có thể không nhất thiết là một giải pháp
khả thi khi xét tới tình trạng chậm chạp và kéo dài của cuộc chiến pháp lí hiện
nay giữa Philippines và Trung Quốc. Tùy thuộc vào cách việc tố tụng diễn tiến,
có thể có nhiều khả năng rằng các bên sẽ rơi ngược vào một hình thức thỏa thuận
song phương hoặc đa phương nào đó, tương tự nhưng mạnh hơn Tuyên Bố về Ứng Xử năm
2002 vốn tìm kiếm sự gần gũi về terriclaims
giữa ASEAN hoặc các bên tranh chấp là thành viên ASEAN và Trung Quốc. [2]
Terriclaims của Trung Quốc biểu lộ quyết tâm to lớn mà Trung
Quốc sẵn sàng theo đuổi để thống trị Biển Đông. Và mặc dù nó có vẻ dường như mới
lạ, sự kiện rằng chiến thuật này có một vai trò lâu dài như vậy trong lịch sử
Trung Quốc có nghĩa là chúng ta không nên trông đợi thấy nó sớm biến mất khỏi bộ
công cụ của Bắc Kinh trong thời gian tới.
============
[1] Xem các Điều
7 (2) (về lắng tụ và các tam giác châu), 76 (ranh giới cố định thay cho các yêu
sách thềm lục địa), 60 (đảo nhân tạo, các kiến trúc, và các cấu trúc), và 121
(sự khác biệt giữa đảo và [đảo] đá).
Wilson VornDick là thiếu tá Hải quân Mĩ và được phân về Lầu Năm Góc và trước đó ông làm việc tại Viện Nghiên cứu Biển Trung Quốc thuộc trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kĩ. Ông đã khảo sát sự tương tác địa chính trị của cả terriclaims lẫn các chủ đề khác ở Biển Đông trong luận văn tốt nghiệp trường Harvard, sẽ được công bố tháng 5 này. Đây là quan điểm cá nhân của ông, không liên quan đến chính sách của Chính phủ Hoa Kì hay của Hải quân Mĩ.
Bài viết này đầu tiên xuất hiện trên trang web của the
CSIS Asia Maritime Transparency Initiative ở đây
No comments:
Post a Comment