CÁCH TRUNG QUỐC KHAI THÁC KẼ HỞ TRONG LUẬT QUỐC ĐỂ HÙNG BÁ Ở ĐÔNG Á
HOW CHINA EXPLOITS A LOOPHOLE IN INTERNATIONAL LAW IN PURSUIT OF HEGEMONY IN EAST ASIA
James Kraska
FPRI
(1/2015)
Dịch: Phan Văn Song
Hiệu đính: Lê Vĩnh Trương
James
Kraska là một Thành viên Cao cấp trong Chương trình về An ninh Quốc gia của
FPRI. Ông là Giáo sư Luật và Chính sách Đại dương tại Trung tâm Nghiên cứu về
Luật quốc tế Stockton tại US Naval War College; Nghiên cứu viên ưu tú tại Viện
Luật Biển, trường Luật Berkeley Đại học California; Thành viên Cao cấp Trung
tâm Luật và Chính sách Đại dương tại trường Luật Đại học Virginia; và Thành
viên Cao cấp tại Trung tâm Luật và An ninh Quốc gia tại trường Luật Đại học
Virginia.
Ai "quan tâm tới kẽ hỡ" ở Biển
Đông? Kẽ hở, được tạo ra trong luật pháp quốc tế liên quan đến việc dùng vũ lực
hay cưỡng ép và quyền tự vệ của các quốc gia nạn nhân. Trung Quốc khai thác lỗ
hổng này trong luật pháp quốc tế về việc sử dụng vũ lực để buộc các nước láng
giềng chấp nhận quyền bá chủ của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Với việc sử dụng các
lực lượng trên biển không đối xứng (chủ yếu là các tàu cá và tàu hải cảnh),
Trung Quốc thôn tính Biển Đông và Biển Hoa Đông một cách chậm và chắc. Bằng
cách khai thác kẽ hở trong luật pháp quốc tế do Tòa án Quốc tế (ICJ) tạo ra, họ
đã tiến hành việc này khiến các quốc gia trong khu vực khó có thể phản ứng một
cách hiệu quả. Phương diện pháp lí này của chính trị quốc tế về các tranh chấp
biển ở Đông Á không được nhiều người hiểu biết, nhưng đó là cốt lõi của chiến
lược của Trung Quốc trong khu vực.
Chiến
lược của Trung Quốc
Trong mưu đồ lớn này, Trung Quốc phải vượt
qua kháng cự từ ba nhóm đối kháng. Thứ nhất, Trung Quốc phải áp đảo Nhật Bản và
Hàn Quốc ở Biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Kế hoạch: chia để chinh phục. Phải chắc
chắn rằng Nhật Bản và Hàn Quốc ghét nhau nhiều hơn là họ ghét Trung Quốc. Chừng
nào mà Nhật và Hàn còn ấp ủ nỗi đau lịch sử thì Trung Quốc còn thủ lợi.
Thứ hai, Bắc Kinh phải “Phần
Lan hoá” các quốc gia xung quanh Biển Đông
bằng cách đưa vùng biển nửa kín này vào quỹ đạo của nó. Kế hoạch: sử dụng một bộ
cà rốt và gậy để đưa các “bạn ngoài mặt” (frenemies)
yếu hơn nhiều -–như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei vào vòng
thần phục. Tương tự như vậy, chia rẽ trong nhà ASEAN làm lợi cho Trung Quốc.
Chiến lược này tự thân là một tiếp cận mạnh mẽ, và 150 năm đầu Mỹ gieo rắc thống
trị và chia rẽ ở Nam Mĩ đã mở ra một con đường tuyệt vời cho một đế quốc đang
hình thành tiếp bước.
Cuối cùng, Bắc Kinh phải thủ thế để ngăn
ngừa khả năng can thiệp và ngăn trở của hai cường quốc biển lớn bên ngoài khu vực.
Chỉ có Hoa Kì và Ấn Độ là ở trong vị thế cản phá tham vọng của Trung Quốc. Kế
hoạch: gây sức ép trong khu vực mà không liều tới mức biến thành chiến tranh
trên biển giữa các cường quốc. Đặc biệt, tránh né sự cố dễ kích hoạt các thỏa
thuận an ninh của Mĩ với Nhật Bản, Hàn Quốc, hoặc Philippines.[1]
Trong mưu đồ 3 kế hoạch này, Trung Quốc gây sức ép qua hết các thang bậc của cưỡng
ép mức thấp, song cẩn thận không đến mức bị xem là “tấn công vũ trang” trong luật
pháp quốc tế, và do đó mở đường cho quyền tự vệ của cá nhân và tập thể.
Ví dụ, bắt đầu vào năm 1999, Trung Quốc
tuyên bố “lệnh cấm đánh bắt cá” theo mùa khắp Biển Đông, dù họ không có thẩm
quyền pháp lí để quy định việc đánh cá ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí
(EEZ) của mình. Chỗ xa nhất mà lệnh cấm của Trung Quốc vươn tới cách mũi phía
nam của đảo Hải Nam hơn 1000 hải lí. Lệnh cấm đánh bắt cá nhằm quản lí nguồn cá
trong vùng EEZ của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và Brunei. Hãy
tưởng tượng điều tương tự nếu như Hoa Kì bắt đầu kiểm soát các tàu đánh cá và
các giàn khoan dầu trong EEZ của Mexico.
Trung Quốc cũng đã không ngơi nghỉ đề
cao quyền lịch sử đối với các đảo và các thể địa lí, và hầu như tất cả các vùng
biển, của toàn bộ Biển Đông. Thế giới đều mất kiên nhẫn với yêu sách ngoan cố
và ngạo mạn của Trung Quốc về “vùng nước lịch sử” ở Biển Đông. Yêu sách biển được
dựa trên các nguyên tắc được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển (LOSC) mà Trung Quốc tham gia năm 1996. Tuy nhiên, yêu sách quá mức của Bắc
Kinh dựa trên đường 9 (bây giờ 10) đoạn vốn được Trung Hoa Dân Quốc công bố năm
1947. Dù một quy tắc cơ bản của các nguồn của pháp luật quốc tế là cái “mới nhất
chiếm ưu thế,” Trung Quốc vẫn trắng trợn nêu ra yêu sách đường nhiều đoạn như
con bài át chủ bài để bỏ qua nghĩa vụ pháp lí trong Công ước Luật biển.[2]
Trung Quốc cũng đã làm mới yêu sách lịch sử ở Biển Hoa Đông đối với quần đảo
Senkaku, và ở Hoàng Hải. Yêu sách biển tạo thành “lỗi tự gây ra” (unforced
error) lớn nhất của Trung Quốc trong khi mạo nhận rằng mình là nước lớn “đang
trỗi dậy một cách hoà bình”.
Chiến
thuật của Trung Quốc
Bắc Kinh triển khai nhiều loại ở số lượng
đáng kinh ngạc các tàu và máy bay chấp
pháp dân sự và thương mại nhằm áp đặt yêu sách của mình và hù dọa nước khác.
Tàu đánh cá và ngư chính là đội tiên phong của chính sách này, dẫn đến các cuộc
đụng độ thường xuyên với tàu tuần tra an ninh biển trong EEZ của các nước láng
giềng.[3]
Defense News gọi đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc là những “kẻ
thực thi chân gỗ” (proxy enforcer) hoạt
động phối hợp với Hải Cảnh và Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) để
“khoanh vùng một khu vực tranh chấp tranh giành hoặc tạo ra một hàng rào phong
tỏa” đối với lực lượng hải quân của các đối thủ. Chẳng hạn, tàu Hải giám Trung
Quốc đã đóng kín hoàn toàn lối vào đầm phá rộng lớn của bãi
ngầm Scarborough, nằm bên trong EEZ của
Philippines và cách Tây Philippines 125 hải lí. Đôi khi, những sự cố này biến
thành chết người. Ví dụ như trong tháng 12 năm 2011, một ngư dân Trung Quốc giết
chết một hải cảnh Hàn Quốc khi anh này cố tìm cách bắt giữ tàu Trung Quốc vì
đánh cá bất hợp pháp.
Đoàn tàu đánh cá là “đám phản đối mướn”
(rent-a-mobs) trên biển, tuy nhiên chúng đặt ra một tình thế lưỡng nan nhạy cảm
đối với các nước trong khu vực. Nếu tàu đánh cá bị lực lượng thực thi pháp luật
biển của các nước láng giềng hạch hỏi đuổi đi thì có vẻ như ngư dân TQ đang bị
đối xử nặng tay. Yếu tố chính trị này cũng hâm nóng chủ nghĩa dân tộc ở Trung
Quốc. Mặt khác, nếu các quốc gia ven biển im lặng đối với những hoạt động của
các tàu đánh cá thì có nghĩa họ nhường thẩm quyền và quyền chủ quyền trong EEZ
của mình cho TQ.
Trung Quốc bắt đầu sử dụng tàu cá làm lực
lượng không chính quy lần đầu tiên vào đầu thập niên 1990 cho hai đảo Mã Tổ
(Matsu) và Kim Môn (Jinmen) để tạo sức ép lên Đài Loan trong những lúc có căng
thẳng chính trị.[4]
Hiện nay Trung Quốc sử dụng chiến thuật này chống Nhật ở Biển Hoa Đông và chống
lại Philippines, Việt Nam và Malaysia ở Biển Đông. Trung Quốc cũng sử dụng các đoàn
tàu cá đối với Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Năm 2009, lúc đối đầu với tàu đặc nhiệm
USNS Impeccable khi tàu này tiến hành khảo sát quân sự cách Đảo Hải Nam 75 hải
lí, Trung Quốc đã sử dụng một đội tàu gồm một tàu tình báo hải quân, một tàu
ngư chính, một tàu hải dương học và hai tàu chở hàng nhỏ hoặc tàu
đánh cá. Một số tàu có vẻ được bố trí với
người thuộc lực lượng đặc biệt Trung Quốc.[5]
Nhằm hun đúc sự thống nhất các nỗ lực mạnh
mẽ hơn trong chính phủ, Bắc Kinh nhập năm cơ quan riêng biệt thành một lực lượng
Hải Cảnh duy nhất hồi tháng 3 năm 2013. “Năm con rồng” đó là Tuần duyên TQ thuộc
Công an Biên phòng, Cục An toàn Hàng hải TQ thuộc Bộ Giao thông vận tải, Hải
giám TQ thuộc Cục Quản lí Đại dương Quốc gia, Lực lượng Ngư chính TQ thuộc Bộ
Nông nghiệp và lực lượng thuế trên biển thuộc Tổng cục Hải quan.
Năm ngoái, Trung Quốc nhét thêm giàn
khoan dầu vào rọ các lực lượng bán quân sự trên biển khi giàn khoan HD 981 thuộc
Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia TQ (CNOOC) đặt gần quần đảo Hoàng Sa
trong EEZ của Việt Nam. Giàn khoan này đã được bảo vệ với một đoàn khoảng 30
tàu đánh cá, tàu bán quân sự, tàu chiến của PLAN cho đến khi nó rút
đi một tháng sau đó. Sự cố giàn khoan dầu
đưa quan hệ Trung-Việt xuống điểm thấp nhất tính từ năm 1979. Lực lượng Việt
Nam bị thủy quân lục chiến Trung Quốc đẩy khỏi quần đảo Hoàng Sa trong cuộc xâm
lược đẫm máu năm 1974.
Khi khu vực này đang chờ phán quyết của trọng
tài theo đơn kiện của Philippine để bảo tồn
quyền chủ quyền trong EEZ của mình, việc TQ phiêu lưu trên biển trong khu vực
xeo một lỗ hổng trong luật nhân đạo quốc tế do một số luật gia hàng đầu thế giới
tạo ra trong vụ kiện trước ICJ 1986 về các hoạt động quân sự và bán quân sự chống
lại Nicaragua (Nicaragua kiện Hoa Kì).
Trung
Quốc “lưu tâm đến kẽ hở” trong Luật quốc tế
Để cho chiến lược của mình có tác động,
Trung Quốc phải ép buộc dần các nước láng giềng chấp nhận bá quyền của Bắc
Kinh, nhưng tránh đối đầu quân sự. Trung Quốc sử dụng vũ lực thông qua các tàu
hải cảnh, tàu đánh cá, và bây giờ cả giàn khoan để thay đổi cảnh quan chính trị
và pháp lí trên biển ở Đông Á, nhưng họ vẫn có ý giữ tàu hải quân xa ngoài chân
trời để tránh nguy cơ kích động chiến tranh.
Hiến chương của Liên Hiệp Quốc điều chỉnh
luật về việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mục tiêu của Liên Hiệp Quốc
là nhằm ngăn chặn “các hành vi xâm lược và vi phạm hoà bình khác.”[4]
Trong khi Hiệp ước Kellogg-Briand 1928 nổi tiếng đặt ngoài vòng pháp luật các
hành vi “chiến tranh”, và thỏa thuận này bây giờ được coi là đỉnh cao của sự
ngây thơ giữa hai cuộc chiến, việc ngăn cấm võ lực trong Hiến chương Liên Hiệp
Quốc thậm chí còn rộng hơn. Theo Điều 2 (4) của Hiến chương, “tấn công vũ
trang” (hay chính xác hơn, xâm lược vũ trang hoặc aggression armée trong bản dịch tiếng Pháp chính thức) là trái pháp
luật. Điều 2 (4) cũng nói rằng đe dọa sử dụng vũ lực cũng là vi phạm như chính
việc sử dụng vũ lực.
Các quốc gia có thể làm gì nếu họ bị tấn
công vũ trang hoặc xâm lược vũ trang? Điều 51 của Điều lệ công nhận quyền tự
thân về tự vệ cá nhân và tập thể của tất cả các nước để đối phó với một cuộc tấn
công. Cho đến nay điều này vẫn ổn - bất kì việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp nào
đều được coi là tấn công vũ trang, và tấn công vũ trang kích hoạt quyền tự vệ của
nước bị thương tổn, đúng thế không? Sai, ít nhất là theo Tòa án Công lí Quốc tế.
Phán quyết trong vụ
Nicaragua kiện ở toà ICJ năm 1985 mở ra một
“kẽ hở” giữa việc tấn công vũ trang của một nước và quyền tự vệ của nước nạn
nhân.
Vụ kiện phát sinh từ các cuộc chiến
tranh ở Trung Mĩ trong thập niên 1980. Chế độ Sandinista ở Nicaragua nắm quyền
vào năm 1979, và bắt tay vào một chiến dịch Marxist “giải phóng” Honduras, El
Salvador và Costa Rica. Nicaragua yểm trợ phong trào kháng chiến manh mún ở El
Salvador với vũ khí, đạn dược, tiền bạc, đào tạo, tình báo, chỉ huy và kiểm
soát, cũng như cung cấp nơi trú ẩn ngoài biên giới. Với sự trợ giúp này, lực lượng
du kích làm tê liệt nền kinh tế El Salvador và biến bất mãn của thiểu số thành
một cuộc nổi dậy toàn diện. Dân chúng trong vùng gánh chịu đau khổ, và cả hai bên
đều phạm
các hành vi tàn bạo.
Để ổn định El Salvador, Tổng thống
Ronald Reagan đã kí Chỉ thị Quyết nghị an ninh quốc gia 17 (NSSD 17) vào ngày
23 tháng 11, 1981. NSSD 17 cho phép CIA xây dựng lực lượng phiến quân Contra tiến
hành hành động bí mật để lật đổ chế độ Sandinista ở Nicaragua. Viện trợ quân sự
đổ vào Honduras và El Salvador để giúp họ chống lại phiến quân cộng sản. Quyết
định này phản ánh một trong những chương trình đầu tiên của chủ thuyết Reagan đối
lại việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô.
Năm 1984, Chính phủ Nicaragua đã khởi kiện
Hoa Kì trước ICJ, lập luận rằng các hoạt động bí mật của Mĩ chống Nicaragua,
bao gồm việc trang bị vũ khí cho phiến quân Contra và thả mìn các cảng của
Nicaragua, là vi phạm chủ quyền của Nicaragua. Hoa Kì phản biện rằng các hoạt động
của Mĩ là thực hành quyền tự vệ cố hữu của cá nhân và tập thể theo theo Điều 51
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Duarte của El Salvador nói với giới
truyền thông vào ngày 27 tháng 7 năm 1984:
Cái
mà tôi đã nói, theo quan điểm của Salvador, là chúng tôi đứng trước vấn đề bị xâm
lược bởi một nước tên là Nicaragua bên trong El Salvador, rằng bọn họ đang đưa
vũ khí, huấn luyện, con người, đạn dược và và bao nhiêu thứ nữa vào El
Salvador. Tôi nói rằng, ngay vào giờ phút này họ đang sử dụng tàu đánh cá ngụy
trang, đưa vũ khí vào El Salvador vào ban đêm.
Trước
tình hình này, El Salvador phải tìm cách ngăn chặn. Phe Contra ... đang tạo ra
một loại rào cản ngăn chặn không để Nicaragua tiếp tục đưa những thứ đó vào El
Salvador qua đường bộ
Họ
thay thế bằng cách chuyển hàng vào bằng đường biển, và thâm nhập được qua ngã
Monte Cristo, El Coco, và El Bepino.[7]
Tòa đã bác bỏ lập luận của Mĩ và El
Salvador về tự vệ chống lại tấn công vũ trang của Nicaragua. Trong một quyết định
tạm thời về vụ kiện này, ICJ phán quyết với số phiếu 15-0 rằng Hoa Kì phải
“ngay lập tức ngừng và từ bỏ mọi hành động hạn chế, phong tỏa, hoặc gây nguy hiểm
cho việc ra vào các cảng của Nicaragua ....” Trong phán quyết cuối cùng dựa
trên chứng lí (ruling on Merits) , qua một cuộc bỏ phiếu 14-1 ICJ khẳng định rằng
quyền chủ quyền của Nicaragua không được hủy hoại bởi các hoạt động bán quân sự
của Mĩ. Huấn luyện, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, và tiếp tế cho Contra là
vi phạm luật pháp quốc tế, và không phải là một biện pháp tự vệ tập thể hợp
pháp mà Hoa Kì và các đồng minh thực hiện trong khu vực của mình để đối phó với
sự xâm lăng của Nicaragua.
ICJ phán rằng cưỡng ép mức thấp hoặc can
thiệp, như “việc đưa các nhóm/toán vũ trang, không chính quy, hoặc lính đánh
thuê thay mặt cho hoặc từ cho một nước ” vào một nước khác cấu thành một “cuộc
tấn công vũ trang”, nhưng quyền tự vệ chỉ được kích hoạt khi sự can thiệp như
thế đạt tới “quy mô và hậu quả” hay có “trọng lựợng” tới mức như một cuộc xâm
lược. Không có quyền sử dụng tự vệ chống lại cưỡng ép hoặc tấn công vũ trang mức
thấp bằng quân chính quy hay quân nổi dậy khi chưa tăng lên đến ngưỡng trọng lực
hay quy mô và hậu quả.
Trong khi cả Nicaragua lẫn Hoa Kì đều đã
tài trợ cho quân du kích và tham gia vào các hành vi làm mất ổn định khu vực, sự
phân biệt của ICJ mở ra khái niệm “kiểm soát hiệu quả”. Nicaragua được Toà xác
định là chưa có “kiểm soát hiệu quả” đối với những người nổi dậy lật đổ chính
phủ ở El Salvador và Honduras, trong khi Hoa Kì được coi là thực hiện “kiểm
soát hiệu quả” đối với việc thả mìn các cảng Nicaragua và quân Contra.
Tòa án không cho El Salvador cơ hội can
thiệp vào vụ kiện, đảm bảo chuyện ông Thiện đối đầu với ông Ác (David chống
Goliath). ICJ cũng chấp nhận phiên bản của Sandinista về các sự kiện và bỏ qua
việc Nicaragua xâm lược vũ trang chống các nước láng giềng.[8]
Thẩm phán Schwebel, một người Mĩ trong Tòa án, đưa ra phát biểu bất
đồng duy nhất: “Nói vắn tắt Tòa có vẻ
cung cấp – gần như cho không - một đơn thuốc để các chính phủ hung bạo lật đổ
các chính phủ yếu trong khi từ chối không cho các nạn nhân tiềm năng ... nguồn
hi vọng duy nhất để tồn tại.” Vụ kiện tiêu biểu cho một trong những mảng sơ suất
lớn nhất của luật pháp quốc tế trong lịch sử và không đáng ngạc nhiên rằng phán
quyết này bây giờ hậu thuẫn việc xâm lấn trên biển của Trung Quốc (cũng như các
hành vi tai quái của Nga tại các nước láng giềng từ Georgia đến Ukraine đến
vùng Baltic - nhưng đó là một câu chuyện khác).
Dù vụ kiện của Nicaragua có là nỗ lực nhằm
đánh bại Mỹ về tố tụng, hoặc một nỗ lực trí tuệ cao nhưng định hướng yếu về mặt
công bằng trong cộng đồng quốc tế (như tôi đã gợi ra ở
đây) hay không, kết quả là một lỗ hổng mở
ra giữa xâm lược vũ trang và quyền tự vệ. Bằng cách sử dụng cưỡng ép ở mức thấp
thông quanhiều hành vi nhỏ nhưng không có hành vi nào trong đó đủ để kích hoạt
quyền tự vệ, những kẻ xâm lược được thưởng. Nhận thức rõ về mặt pháp lí và mặt
chính trị vụ Nicaragua, Trung Quốc đang kiếm được nhiều điều lợi chiến lược
trên biển với cái giá các nước láng giềng phải trả mà không tạo nguy cơ làm nổ
ra chiến tranh.
Hơn nữa, việc Trung Quốc sử dụng có tính
chiến lược đội tàu đánh cá như là một thành phần của “chiến tranh pháp lí” vượt
khỏi việc khai thác lỗ hổng giữa sử dụng vũ lực và tự vệ trong luật về sử dụng
vũ lực (jus ad bellum); điều đó cũng ảnh
hưởng đến luật trong chiến tranh (jus in
bello). Tàu cá có khả năng sẽ được sử dụng làm các tàu chiến trong bất kì
cuộc chiến tranh khu vực nào. Một số người nghi ngờ Trung Quốc đang trang bị
máy dò sonar cho hàng ngàn tàu đánh cá để tích hợp chúng vào các hoạt động tác
chiến chống tàu ngầm của hải quân vốn có nhiệm vụ tìm và đánh chìm tàu ngầm của
Mĩ và đồng minh.
Kể từ vụ kiện có tính cột mốc Paquette Habana
1990, phát sinh từ việc Hoa Kì bắt giữ tàu đánh cá Cuba trong cuộc chiến Mĩ-Tây
Ban Nha, tàu đánh cá ven biển và ngư dân được loại ra khỏi mục tiêu tấn công hoặc
miễn bị bắt giữ trong xung đột vũ trang. Với việc đặt máy dò sonar trên tàu
đánh cá như một phép nhân tăng lực lượng cho các hoạt động chống tàu ngầm, Bắc
Kinh ngay lập tức có nguy cơ làm các tàu này bị coi là mục tiêu hợp pháp trong
các sự cố xung đột. Nhưng cáp quang của Hải quân Mĩ làm chìm tàu đánh cá Trung
Quốc là tuyên truyền thực hiện theo đơn đặt hàng. Trong mọi sự cố, Sam
Tangredi, một chiến lược gia có tiếng tự nhủ Hải quân Mĩ sẽ dám xài bao nhiêu
ngư lôi trong số có hạn khi mà số lượng tàu đánh cá là rất lớn.
Vậy phản ứng đối với tất cả điều này có
thể là gì? Nhiều nước từ lâu đã sử dụng các cuộc tấn công không đối xứng bay dưới
tầm radar. Cái khác biệt hiện nay là chiến tranh không chính quy được dùng như một
công cụ của kẻ mạnh chứ không phải kẻ yếu để thay đổi hệ thống an ninh khu vực.
Hơn nữa, các khía cạnh pháp lí quốc tế của tình thế hiện tại phải quen với lợi
thế của Trung Quốc. Do đó, rủi ro hệ thống là lớn tới mức đó và chỉ có thể so
sánh với chiến dịch Liên Xô gây bất ổn định các nước thời Chiến tranh Lạnh. Ai
nói luật pháp quốc tế là chẳng có gì quan trọng?
[1] Hoa
Kì có thoả thuận quốc phòng với 5 nước ASEAN: Thailand, Philippines, Japan,
South Korea, và Australia. Một số trong
các thoả thuận này và Đạo luật về quan hệ với Đài Loan là chủ đề của một pod
cast của FPRI năm ngoái, có thể truy cập ở đây: http://www.fpri.org/multimedia/2014/06/us-security-commitments-asias-changing-strategicenvironment-look-japan-taiwan-korea-and-philippines-audio.
[2] Những
nước có yêu sách đánh cá lịch sử thể tìm kiếm quyền truy cập từ các quốc gia
ven biển quản lí những khu vực đó theo Điều 62 của Công ước Luật Biển.
[3] Lyle
J. Goldstein, “Chinese fisheries enforcement: Environmental and strategic implications,”
40 Marine Policy 187 (2013).
[4] Wendell
Minnick, Fishing Vessels in China Serve as Proxy Enforcers, Defense News,
August 18, 2014, p. 15.
[5 Một
số “ngư dân” có vẻ không là ngư dân làm ăn chân chính- trẻ, ăn mặc đàng hoàng,
thể thao, liên tục trên biển trong khu vực Đông Nam Á mà da không bị rám nắng,
và không thể vận hành thiết bị đánh cá (!). Quan sát này đã được một cựu đô đốc
2 sao ở Đông Nam Á và một trưởng Hải quân đã nghỉ hưu của một trong những quốc
gia xung quanh Biển Đông cho tôi biết.
[6] Điều
1(1), Hiến chương LHQ.
[7] Họp
báo của Tổng thống Duarte, Sam Salvador Radio Cadena YSKL (tiếng Tây Ban Nha)
1735 GMT 27 July 1984 in San Salvador (July 27, 1984) reprinted in FBIS Daily
Reports Latin America, 1, 4 (July 30, 1984). 8 See, e.g. John Norton Moore, The
Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987).
[8] Xem, chẳng
hạn. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault
on World Order (1987). John Norton Moore từng là Phó Đại diện của Hoa Kì vào
giai đoạn pháp lí của vụ án. Hoa Kì đã không tham gia trong giai đoạn đối chứng
(Merits phase) của vụ kiện. Toàn văn tiết lộ: Tôi thực hiện nghiên cứu tiến sĩ
dưới hướng dẫn của John Norton Moore tại School of Law Đại học Virginia, ở đó
tôi cũng làm việc với tư cách Nghiên cứu viên cao cấp. Giáo sư Moore đã viết rất
nhiều về những thiếu sót của pháp luật trong vụ này trong John Norton Moore, Jus Ad Bellum before the International
Court of Justice, 52 Virginia Tạp chí Luật quốc tế 903, 919-935 (Hè 2012).
No comments:
Post a Comment