Tranh chấp về việc ai có quyền đánh cá ở vùng biển ngoài khơi quần đảo
Natuna. Khu vực này là chỗ đường chữ U của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia được vẽ từ Natuna.
EEZ của Indonesia được tuyên bố phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS). Indonesia có quyền đối với tài nguyên vươn tới 200 hải lí từ
lãnh thổ có người ở. Nhưng đường chữ U của Trung Quốc từ đâu ra? (Bản đồ:
@madeandi)
đường chữ U của Trung Quốc được chính phủ Trung Hoa Dân quốc (THDQ/ROC) xuất bản lần
đầu tiên vào đầu năm 1948. Các cuộc thảo luận về việc vẽ đường này như thế nào bắt
đầu sau Thế chiến thứ hai.
Hai nhân vật chủ chốt, được Bộ Nội vụ THDQ sử dụng để tư vấn
cho các yêu sách lãnh thổ sau chiến tranh, là các nhà địa lí: Zheng Ziyue 鄭資約(Trịnh Tư Ước) và Fu Jiaojin 傅角今 (Phó Giác Kim).
Hai người này đã vẽ phiên bản đầu tiên của đường chữ U - một bản đồ
phác họa trình bày trong một cuộc họp liên ngành của ROC vào ngày 25 tháng 9 năm
1946.
Nhưng đường này từ đâu ra? Cả Trịnh Tư Ước lẫn Phó Giác Kim đều là
sinh viên của giáo sư Địa lí tự học Bạch Mi Sơ tại Đại học Sư phạm Bắc Kinh
vào cuối những năm 1920. Họ đã sao lại một đường ông đã vẽ vào năm 1936.
Bạch Mi Sơ đã xuất bản ‘Trung Hoa kiến thiết tân đồ’ 中華建設新圖vào năm 1936, trong đó ông xác định các yêu sách đối với
lãnh thổ hiện đại của Trung Quốc – vốn đang bị tranh chấp ở nhiều khu vực. Ông
vẽ một đường màu đỏ, đậm nét vòng quanh theo ông nghĩ là ranh giới chính đáng của
Trung Quốc.
Nhưng Bạch Mi Sơ không biết nhiều về biển Đông. Bản đồ của ông đầy những
hòn đảo không tồn tại – mà bao quanh chúng ông vẽ đường ranh giới màu đỏ của
mình. Các ‘đảo’ đó gồm bãi Tư Chính (Vanguard Bank) ngoài khơi Việt Nam, bãi James
ngoài khơi Borneo và bãi Cá Ngưa (Seahorse Shoal) ngoài khơi Philippines.
Tên tiếng Trung cho tất cả các thể địa lí này chỉ đơn thuần là dịch hoặc
phiên âm tên tiếng Anh: Vanguard Bank = Qianwei Tan (Tiền Vệ than); James Shoal
= Zengmu Tan (Tăng Mẫu than); Seahorse Shoal = Haima Tan (Hải Mã than).
Bạch Mi Sơ đã lấy những cái tên này từ bản dịch danh sách các tên do một
ủy ban chính phủ ROC thực hiện vào năm 1934. Ủy ban đã chọn dịch các từ tiếng
Anh ‘bank’ và‘ shoal, với chữ tiếng Trung ‘tan’灘, có nghĩa là‘ sandbank’.
Bạch Mi Sơ dường như đã cho rằng tất cả những ‘tan’ (than) này là những
hòn đảo trên mặt nước và vẽ đường đỏ của ông bao quanh chúng. Nhưng trên thực tế,
tất cả là các thể địa lí này đều nằm dưới mặt nước. Đây là lí do tại sao Trung
Quốc hiện yêu sách các đảo không tồn tại là lãnh thổ của mình. [Hình ảnh cho thấy
một buổi lễ tuyên thệ của HQTQ tại bãi ngầm James].
Vì sao Ủy ban ROC lại chọn danh sách các tên đảo đó? Họ chỉ đơn giản là
sao chép nó từ quyển Danh Mục của phòng Thủy văn Vương quốc Anh (UK Hydrographic
Office China Sea Directory) năm 1906!
Có vẻ họ cũng đã dựa vào một bản đồ được công bố bởi công ti London @StanfordsTravel
năm 1918. [So sánh bản đồ 1918 với bản đồ ROC 1948 bên dưới]
Đường mà Bạch Mi Sơ đã vẽ xung quanh Seahorse Shoal, James Shoal và
Vanguard Bank vào năm 1936 dựa trên các thể địa lí ngầm vẽ trên bản đồ Stanford
Stanford năm 1918.
Đường này đã được hai sinh viên của ông, Trịnh Tư Ước và Phó Giác Kim vẽ
theo, và được chuyển cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc năm 1946. Đây là cái đường
hiện đang gây ra răc rối cho cả khu vực, bao gồm cả Indonesia.
Vì vậy, quả khôi hài như có vẻ như vậy, vấn đề hiện
nay của Indonesia với Trung Quốc ở biển Đông là kết quả của kĩ năng dich kém và
khả năng làm bản đồ tồi ở Trung Quốc trong những năm 1930. Yêu sách Bắc Kinh dựa
trên sự dốt nát.
Vừa qua khi phản bác hồ sơ thềm lục địa mở rộng của Malaysia và mới đây phản bác tố cáo của Indonesia về việc xâm nhập trái phép EEZ của quần đảo Natuna, Tàu+ đều viện dẫn rằng họ sở hữu HS, TS..., họ có ‘quyền lịch sử’ ở biển Đông... Để chứng minh về quyền sở hữu, Tàu+ lập luận rằng họ đã phát hiện, đặt tên trước... với việc lấy những cái tên (thật ra ko biết phải tên hay chỉ là mô tả vì chữ viết Tàu ko có kiểu chữ hoa và ngày xưa ko cả có dấu câu) mù mờ trong các đoạn trích cắt đầu, xén đuôi từ sách vở xưa rồi phán đó là tên của chỗ này chỗ kia, ví dụ ‘khi đầu’ (崎头 qitou)(1) [trong biển trướng] tức là những chỗ đá nhấp nhô chìm nổi ngoài biển [trướng], Tàu+ cho rằng đó là tên riêng Qitou để chỉ tất cả các đảo ở biển Đông. Còn biển Đông ông cha họ khi thì gọi là ‘Trướng hải’ (涨海 Zhanghai), khi thì gọi là ‘Nam hải’ (南海 Nanhai), lúc khác thì gọi là ‘Nam dương’ (南洋 Nanyang)...
Về cái ‘tên’ Trướng hải hay biển Trướng, theo Roderich Ptak(2) thì cho đến gần đây vẫn chua có kết luận cuối cùng về cách giải thích từ này và việc thảo luận về nó vẫn đang tiếp diễn. Trong nghiên cứu chi tiết trước đó về từ này, Ptak giải thích rằng zhanghai - một từ ông không dịch khác hơn là “biển zhang” (“Zhang Meer”) - là một từ mô tả các vùng biển ngoài khơi Quảng Đông, xung quanh đảo Hải Nam, và vịnh Bắc Bộ. Cuối cùng, từ này bao gồm hầu hết các khu vực biển từ Quảng Đông đến Ấn Độ Dương. Theo đó, zhanghai không nhất thiết chỉ một khu vực biển cụ thể, mà là một tên gọi mơ hồ cho một khu vực biển không xác định.
Còn Joseph H. Charignon trong một chuyên khảo dài(3) cũng cho rằng "tên gọi này (Nam hải) có từ xa xưa và đã xuất hiện trong chương Vũ cống (禹貢) của kinh Thư (書經), tất nhiên lúc đầu nó có nghĩa rất rộng, giống như từ cùng nghĩa của nó là Trướng hải (Zhǎng hǎi 漲海). Theo 胡渭 Hồ Vị(4) , người sống vào thời trước công nguyên, Nam hải (biển Nam) bắt đầu từ phủ Triều Châu (潮州) [Quảng đông] và trải dài hơn 6 hoặc 7 ngàn lí từ đông sang tây. Dưới cái tên Trướng hải (biển Trướng), nó vẫn giữ cách nhìn nhận này cho đến ngày nay, nhưng trong các tài liệu của các triều Tống, Đường và vài triều đại trước đó, cách gọi Nam hải (biển Nam) và Trướng hải thường được sử dụng theo một nghĩa hạn chế chỉ dùng để chỉ biển nội địa trải dài về phía tây của bán đảo Trường Sơn; do hai cái tên này dễ gây nhầm lẫn nên một số tác giả đã thay bằng các cái tên khác chính xác hơn, chẳng hạn như biển Tế Lan (Xì lán 細蘭海) biển Bồ Bôn (Pú bēn 莆奔大海) và biển nước ngọt [淡水洋 (đạm thuỷ dương) hoặc 淡洋 (đạm dương)]." Như vậy, Trướng hải và Nam hải có thể còn chỉ một biển từng tồn tại xưa kia ở phia tây dãy Trường Sơn (khá bất ngờ!) như tác giả đã cố gắng chứng tỏ sự tồn tại của nó theo sử sách Tàu [và cả phương Tây lẫn Ả Rập]. Xin ghi lại đây một số điều dễ theo dõi mà tác giả dùng để chứng minh:
1. Tấn thư ghi: (a) “Vào thời nhà Hán, Lâm Ấp (Lín yì 林邑, nay là Quảng Bình đến Quảng Nam) ban đầu là lãnh thổ của huyện Tượng Lâm (Xiàng lín 象林縣); đây là nơi mà Mã Viện đúc [và dựng] cột [đồng]. TỪ NƯỚC NÀY ĐẾN NAM HẢI LÀ 3 000 LÍ ...” (b) “Phù Nam cách Lâm Ấp hơn 3 000 lí về phía tây và nằm trên một vịnh lớn của biển [nội địa] (在海西大灣中 tại hải tây đại loan trung). Lãnh thổ của nó trải dài hơn 3 000 lí từ bắc tới nam, cũng như từ đông sang tây. Nước này có nhiều thành có tường bao quanh, cung điện. Người ở đây xấu xí, da đen, tóc xoăn, để mình trần và đi chân không; tính tình chất phát và ngay thẳng, không trộm cắp. Họ chăm chỉ làm việc đồng áng, trồng lương thực một năm dùng trong ba năm. Ngoài ra, họ rất giỏi trong việc chạm khắc; làm ra các đồ dùng nhà bếp, nhất là họ sử dụng tiền ...” (5). * Nam hải trong đoạn đầu tiên, nói ở điểm (a) cách Lâm Ấp (nay là An Nam) 3 000 lí, chúng ta thấy ngay rằng nó không thể là cái biển Nam hải theo nghĩa rộng, mà Lâm Ấp chạy doc theo bờ biển của nó; nó nhất thiết phải tương ứng với cái vịnh lớn của đoạn thứ hai, nói ở điểm (b), và nằm ở ranh giới phía đông của Phù Nam vốn được ghi nhận là cũng cách 3 000 lí về phía tây.
2. Lương thư ghi: “Cách biên giới phía nam của Phù Nam hơn 3 000 lí là nước Đốn Tốn (Dùn xùn 頓遜國), nằm trên một bán đảo miền núi [在海崎上 tại hải khi thượng] và có chiều dài 1 000 lí, kinh đô cách biển 10 lí. Ở đó có 5 vua đều là chư hầu triều cống của Phù Nam. Đốn Tốn quan hệ với Giao Châu (交州) qua biên giới phía đông (vịnh Thái Lan); có thể giao tiếp với Ấn Độ và Parthia qua biên giới phía tây (Ấn Độ Dương); người từ tất cả các nước bên ngoài biên giới của chúng ta đều đến đó để buôn bán. Nhờ đó Đốn Tốn vươn xa ra đại dương cả 1 000 lí, TRONG KHI TRƯỚNG HẢI, KHÔNG CÓ BỜ BIỂN NƯỚC SÂU, KHÔNG CÒN CÓ THỂ ĐI LẠI BẰNG THUYỀN LỚN ...” (6)
“Người ta còn bảo rằng BIỂN TRƯỚNG LÀ RANH GIỚI PHÍA ĐÔNG CỦA PHÙ NAM. Trong biển này có một vùng đất châu thổ rộng mà nước người Bồ (諸蒲國: Chư Bồ quốc) nằm trên đó; phía đông nước này là đảo Mã Ngũ (馬五大洲).”
* Đốn Tốn trải dài toàn bộ chiều dài từ bắc tới nam dọc theo đại dương; do đó sẽ hợp lí khi đặt nó ở đầu phía bắc của bán đảo Malaysia, và có thể nói thêm theo cách nó được mô tả, rằng nó đánh dấu từ phía đó là vùng đất của đế chế Phù Nam. Hai bờ biển phía tây và phía đông của nó, có tàu thuyền thường xuyên lui tới, nhưng bờ biển phía đông không thể là của biển Trướng theo nghĩa rộng, biển đó chạy từ Champa đến Trung Quốc, vì khi đó sẽ chẳng có nghĩa gì khi nói rằng biển này không có bờ biển có thể tiếp cận được, rằng không còn tàu thuyền lớn chạy trên đó. Do đó cách gọi tên này phải được hiểu theo nghĩa hẹp, như được cho thấy trong phần tiếp theo của câu chuyện; chỉ nói về biển Trướng khi có dính dáng đến Phù Nam, đối tượng chính của Ghi chép này (Notice), và để giải thích tại sao việc buôn bán không còn vận chuyển đến biển Trướng này. Từ đó, có vẻ như chúng ta có thể giả định rằng vận may lớn của Nam Kì không xảy ra trước khi người Ả Rập và Trung Quốc đến đó vào thời nhà Đường [618-927].
3. Mã Đoan Lâm, trong Ghi chép về Ấn Độ,(7) có câu này: “Miền đông Ấn Độ giáp với một biển lớn về phía đông; nó nằm cạnh Phù Nam (nay là Xiêm-Campuchia) và Lâm Ấp (nay là bắc An Nam); NÓ CHỈ NGĂN CÁCH VỚI HAI NƯỚC NÀY BỞI MỘT BIỂN NHỎ.” Mặc dù, theo Tân Đường thư, miền đông Ấn Độ sẽ giữ vai trò như một giới hạn phía tây cho nước Phiếu (Biāo 驃國), có vẻ rằng, trong câu nêu trên, miền đông Ấn Độ, do ở lân cận Phù Nam nên phải bao gồm Miến Điện; dù như thế nào, cái biển nhỏ này ngăn cách nó với Phù Nam và Lâm Ấp nên nhất thiết phải nằm về phía bắc của Phù Nam và phía tây của Lâm Ấp; đó là những gì chúng tôi cố gắng thể hiện trên bản đồ khi tìm dấu vết “nửa trên của biển nội địa” ở phía bắc dãy núi Dangrek (ở khu vực biên giới Thái- Campuchia và Lào).
4. Chu Khứ-Phi trong cuốn Lĩnh Ngoại đại đáp, nói rằng “VỀ PHÍA TÂY CỦA CHAMPA, CHÂN LẠP (NGUYÊN THUY) VÀ VÂN NAM CÓ MỘT BIỂN có tên là biển Tế Lan [Xì lán 細蘭海], và trong biển này có đảo Tế Lan.- Champa đã được biết; Chân Lạp (nguyên thủy) được Tân Đường thư đặt ở phía tây bắc của Lâm Ấp, tức là Champa; còn Vân Nam, được biết từ Tống sử là nó phải chạy đến tận Champa và tiếp giáp với nước này. Một biển Tế Lan, nằm ở phía tây của ba xứ này, không thể lấy tên của nó là tên của xứ Tế Lan mà theo các nhà địa lí Ả Rập nằm ở Arakan hoặc ở Bago (Miến Điện), chứ chưa nói đến Tích Lan Colombo, đặc biệt là khi người Ả Rập và Trung Quốc đều thống nhất trong cách gọi bán đảo An Nam là Xi-lan.
5. Một tài liệu sau này, thời nhà Minh nêu rằng “Ở PHẦN TÂY NAM CỦA VÂN NAM, ĐẤT HOANG TRẢI DÀI RA XA VÀ NHIỀU VÙNG ĐỒNG BẰNG RỘNG LỚN VẪN CHƯA SỬ DỤNG; BÊN BỜ BIỂN CÓ NHIỀU VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ NHIỀU LÙM BỤI; đó là xứ của bọn di Bác (Bó 僰夷)(8) sinh sống”. - Tiếp tục về phía đông, tại nơi mà sông Cửu Long chảy vào nước Lào thuộc Pháp, các bản đồ hiện đại đều có in dọc biên giới cụm từ 让洪地方 (NHƯỢNG HỒNG ĐỊA PHƯƠNG), có nghĩa là ‘vùng ngập nước’ (9) . — Trong phần giữa lưu vực sông Cửu Long, cả ở phía đông lẫn phía tây, nhiều đồng bằng rộng lớn không có chỗ gò cao, ngay cả ngày nay, vào mỗi mùa hè đều bị lũ lụt phủ kín(10) , nếu tính đến khả năng lắng bùn kinh khiếp của con sông lớn này thì sẽ không ngạc nhiên rằng một biển nội địa xưa mà diện tích ngày càng giảm bớt đi, có thể đã tồn tại cho tới thời trung cổ.
6. Các tài liệu hiện đại như “Đông Tây Dương Khảo” (1618) và “Quảng Đông-thông chí” (thế kỉ XVII) VẪN CÒN ĐẶT XIÊM (THÁI LAN) NẰM BÊN NAM HẢI; quyển đầu ghi: “xưa kia Xiêm là một phần của Xích Thổ và của Bà La Lạt (Pó luó lá 婆羅剌)”; còn quyển sau nói: “Biên giới của Xích Thổ chính là biên giới của Xiêm; phía đông, có Bà La Lạt; phía tây, có Bà La Sa (Pó luó suō 婆羅娑); phía nam là nước Ha La Đán (Hē luó dàn 訶羅旦); VỀ PHÍA BẮC, NÓ CHẠY TỚI TẬN BIỂN 大海 (đại hải).(11)
Dĩ nhiên, những điều trên chỉ rút từ sử sách xưa mà các sử quan và các tác giả xưa, nhất là của Tàu thường chép y nguyên của người đi trước ít có nhận xét, phê phán và cũng khó có điều kiện đẻ kiểm chứng thực tế. Do đó, cần phải dùng các kiến thức địa chất, khảo cổ, sinh hoá... kiểm tra lại để xác nhận hoặc bác bỏ sự tồn tại của cái biển đang bàn. Dù trường hợp nào xảy ra thì khẳng định ‘Nam hải’ hay ‘Trướng hải’ là biển Đông vẫn là một khẳng định bấp bênh: nếu kiêm lại đúng thì 2 tên này có thể chỉ cái biển nội địa đó, nếu sai thì rõ ràng sử sách mà họ đem ra dẫn chứng không đáng tin vì đã mô tả cái không có trong thực tế.
---------- (1) Lấy từ đoạn trich đầy đủ sau trong Dị vật chí của Dương Phu thời Hậu Hán (25 - 220 CE): “Trướng hải khí đầu thuỷ thiển nhi đa từ thạch KIẾU NGOẠI NHÂN THỪA ĐẠI BẠC GIAI DĨ THIẾT CỐ CHI chí thử quan dĩ từ thạch bất đắc quá” 涨海崎头水浅而多磁石徼外人乘大舶皆以铁锢之至此关以磁石不得过 (Có nhiều đá mấp mô trong biển trướng, và ở đó nước cạn và có rất nhiều đá nam châm. NGƯỜI NƯỚC NGOÀI GIA CỐ THUYỀN LỚN CỦA HỌ BẰNG CÁC TẤM KIM LOẠI. Khi họ đến vùng biển này thì không thể vượt qua được vì bị đá nam châm hút). BNG Tàu+ lúc đầu chỉ trích phần trước chỗ in hoa, mới đây trích tới hết chỗ in hoa. Cách trích như vậy khiến người đọc rất dễ ngộ nhận rằng đây là điều nghiêm túc chứ không phải là điều lạ lùng, khó có thể có thật như tên truyện ngầm cho thấy (dị vật: thứ/vật kì lạ, không bình thường - ở đây là biển có nhiêu đá nam châm, có lực từ mạnh đến nỗi hút thuyền không đi được!) và dấu đi chi tiết người nước ngoài chứ không phải người Tàu đã đi thuyền tới đây. (2) “Zhanghai. Raum und Konzept: Von den Anfängen bis zur Tang-Zeit”(Trướng hải. Khoảng biển và ý niệm: Từ đầu cho tới thời Đường), trong: Müller, Höllmann, và Gui 2004, 241-253 (theo Johannes Kurtz) (3) La Grande Java de Marco Polo en Cochinchine, Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1929 (đã dịch xong, sẽ công bố sau) (4) Hồ Vị, “Explication du chapitre Yu-kong” (Lí giải về thiên Vũ cống), q. 12, tr. 25 r° và v°. (5) Tấn thư, q. 97, tr. 10 V° và 12 r°; bản dịch của toàn bộ tài liệu được P. Pelliot đưa ra, B.E.F.E.O. 1903, tr. 254. (6) Câu cuối cùng này là gây tranh cãi nhất: bản dịch được d’H. Saint Denys đưa ra, Méridionaux, tr. 445; G. Schlegel, T.B. năm 1899, tr. 34-35; P. Pelliot, B.E.F.E. O. 1903, tr.263. Trong số các học giả này, hai người đầu có chép lại nguyên văn tiếng Trung, mà chúng tôi báo lại cho bạn đọc,vì cần phải đọc nó. (7) Mã Đoan Lâm, q. 338, tr. 15 r°, toàn bộ ghi nhận đó được S. Julien dịch, Mélange de géoraphie asiatique (Tạp lục về địa lí châu Á), tr. 50 và các trang kế tiếp. (8) G. Soulie, B.E.F.E.O. 1908, tr. 345. (9) Ví dụ như “ bản đồ hành chính mới của tỉnh Vân Nam 雲南分縣新圖 (Vân Nam phân huyện tân đồ) mới phát hành gần đây của “Nhà in Thương mại Thượng Hải” (10) Mission Pavie (Nhóm truyền giáo Pavia): Géographie et Voyages, t, III, của Capitaine Cupet. (11) G. Schlegel, Thông báo 1899, tr. 161. - Những giới hạn này được rút ra, từng chữ một, từ Tuỳ thư, q. 81, tr. 1 v°, nhưng Xích Thổ rộng hơn nước Xiêm hiện nay; về phía Đông, nó chạy tới bờ biển phía tây của biển, vì có Ha La Đán ở phía nam, tức là Đồ Bà. Hai nước sau, Ha La Đán và Đồ Bà ở trên cùng bán đảo, vì trong Tống sử có nói rằng Ha La Đán nằm trên đảo Đồ Bà 治闍婆洲 (trị Đồ Bà châu)- Xem G. Schlegel, như trên. tr. 159.
Năm nay, hệ thống phát điện mặt trời nổi đầu tiên ở Đông Nam Á đã được triển khai trên một hồ chứa ở Việt Nam.
Các hệ thống năng lượng mặt trời nổi đang được đua vào các kế hoạch tổng thể năng lượng của Singapore, Thái Lan, Indonesia và Philippines cũng như Việt Nam, và vào các tính toán của các ngân hàng đầu tư.
Công nghệ này đưa ra một phương án khác thay cho các dự án thủy điện mới.
Trong khoảng hơn hai thập kỉ, nhiều đợt báo động đã nổi lên ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nó đang chịu tác động dồn dập bởi biến đổi khí hậu, bởi sự phát triển ồ ạt của các đập thượng nguồn, bởi các tập quán canh tác không bền vững và không phù hợp, bởi lòng tham và quyết tâm chính trị. Sự trừng phạt mà đồng bằng này đang gánh chịu đã được báo cáo rõ ràng, đầu tiên là trong các bài nghiên cứu học thuật, kế đó là trong các ấn phẩm chuyên ngành và lời kêu gọi của các tổ chức phi chính phủ.
Bây giờ có một sự đồng thuận: Một thảm họa môi trường đang diễn ra một cách khó dừng được trên 75.000 km² vùng đất thấp màu mỡ có tiếng ở Việt Nam và Campuchia, nơi sinh sống của khoảng 35 triệu nông dân và ngư dân. Các phương tiện truyền thông lớn đang đưa ra các cáo phó bi thương cho sông Mê Kông.
Tuy nhiên, vào mùa thu của một năm mà lũ sông Mê Kông đến muộn hơn bao giờ hết, có lí do để tin rằng một công nghệ đột phá và lực lượng thị trường sẽ tạo điều kiện cho hệ thống thủy văn và hệ sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long tránh khỏi bị xáo trộn không đảo ngược được. Quy lại như thế này: Công nghệ sản xuất điện mặt trời chi phí thấp, dễ nhân rộng đã loại trừ ưu thế kinh tế để xây thêm các dự án thủy điện nữa.
Một hệ thống phát điện mặt trời nổi, hệ thống đầu tiên ở Đông Nam Á, đã được triển khai trong năm nay trên một hồ chứa ở phía nam miền trung Việt Nam. Dự án Đa Mi 47,5 megawatt được một khoản vay của Ngân hàng Phát triển châu Á cấp vốn và được một công ty con của công ty điện lực EVN xây dựng.
Đa Mi không phải là một dự án trình diễn nhờ dựa vào nhiều trợ cấp, mà là một phản ứng rất thích ứng vì áp lực thực tế của thị trường. Để kích thích việc chuyển sang sản xuất điện mặt trời, chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo EVN, công ti điện lực quốc gia, trả 9,35 US cent mỗi kilowatt giờ trong 20 năm cho bất kì dự án nào được đưa vào hoạt động trước ngày 30 tháng 6 năm 2019. Đối với các nhà điều hành Nhà máy thủy điện Đa Mi, tính kinh tế của việc tích hợp hệ thống năng lượng mặt trời với đập thủy điện hiện có rất hấp dẫn. Giàn pin mặt trời rộng 50 ha (124 mẫu Anh), mỗi tấm pin nghiêng theo một góc được tính toán chính xác để tối đa hóa mức thu năng lượng mặt trời, bắt đầu cung cấp điện cho lưới điện quốc gia Việt Nam vào tháng 5.
Do giá của các tấm pin quang điện mặt trời đã giảm rất mạnh trong thập kỉ qua và do việc lắp đặt với ‘quy mô tiện ích công’ (utility-scale ≥ 10 megawatts) có thể được hoàn tất trong vài tháng, các dự án này hiện đang cạnh tranh với các dự án than, khí đốt, thủy điện hoặc hạt nhân. Việc chế tạo các tấm pin mặt trời và chi phí trữ điện bằng ắc-quy, dự kiến sẽ giảm nhiều hơn nữa. Các giàn năng lượng mặt trời nổi được dựng trên các hồ chứa của các đập thủy điện, hiện có hiệu quả đặc biệt về mặt chi phí: không phải mua mặt bằng, đơn giản trong việc nhân rộng khi nhu cầu tăng, cơ sở hạ tầng truyền tải có sẵn và việc phát điện có thể được tối ưu hóa bằng cách chủ yếu dựa vào năng lượng quang điện khi có ánh sáng ban ngày và thủy điện vào ban đêm.
Các hệ thống năng lượng mặt trời nổi đang được ghi vào kế hoạch tổng thể về năng lượng của Singapore, Thái Lan, Indonesia và Philippines cũng như Việt Nam, và vào các tính toán của các ngân hàng đầu tư.
Năng lượng mặt trời nổi với quy mô lớn hơn, công suất đỉnh 400 MW, cũng được xem là giải pháp thay thế cho dự án thủy điện khổng lồ trên sông Mê Kông ở phía đông Campuchia. Vào năm 2014, nỗi lo ngại ngày càng tăng đối với tác động sinh thái của dự án đập Sambor đã thuyết phục chính phủ Campuchia thực hiện một nghiên cứu về các thiết kế thay thế nó. Nghiên cứu này được Viện Di sản Thiên nhiên (Natural Heritage Institute, hay NHI) có trụ sở tại California hoàn tất ba năm sau đó, đã khẳng định dự án đập Sambor này là một thảm họa sinh thái không có giải pháp môi trường nào có thể đối phó được. Đáng chú ý, NHI đã tìm thấy một phương án thay thế hoàn toàn khác, giàn quang điện mặt trời nổi trên hồ chứa Se San 2 gần đó, có thể cung cấp điện cho lưới điện Campuchia với chi phí vòng đời thấp hơn bất kì kịch bản nào của kế hoạch Sambor, và không có tác động môi trường đáng kể.
Chỉ trên cơ sở kinh tế và tài chính, kế hoạch thủy điện Sambor sẽ phải chết. Tuy nhiên, Campuchia là một đất nước ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa; nhu cầu năng lượng của nước này tăng 15-20% mỗi năm. Nước này là một đồng minh trên thực tế của Trung Quốc, nhờ vậy Trung Quốc ngăn chặn Việt Nam hoặc Thái Lan lèo lái Campuchia theo hướng khác. Tham nhũng trong chính quyền đầy rẫy. Khiếu kiện của công dân dường như không gây ấn tượng với chính quyền Phnom Penh. Nếu các ngân hàng nhà nước Trung Quốc vẫn sẵn sàng cho các công ti Trung Quốc vay khoản tiền mặt cần thiết để xây đập Sambor và Stung Treng, một đập gây tranh cãi khác ở thượng nguồn, liệu Phnom Penh có khả năng từ chối không?
Lào vẫn mơ ước làm giàu từ xuất khẩu điện. Mặc dù nước này cũng đang xem xét đề xuất năng lượng mặt trời nổi của NHI, dù kinh tế của thủy điện u ám hơn bao giờ hết và các khoản nợ chồng chất với Sinohydro và các nhà thầu Trung Quốc khác đã không làm giảm bớt sự nhiệt tình của Viêng Chăn trong việc làm chủ khoảng 200 đập sản xuất điện. Các nước láng giềng cũng chưa rút lại lời hứa sẽ nhập khẩu một lượng lớn điện của Lào. Được biết Thái Lan đã cam kết tăng mức nhập khẩu điện của Lào, từ mức khoảng 4000 MW hiện tại lên 9000 MW vào năm 2025; trong khi đó, Việt Nam có kế hoạch lấy 5000 MW vào năm 2030; và Campuchia vừa hứa sẽ lấy 2400 MW bắt đầu vào năm 2024 từ các nhà máy điện than hiện đang được xây dựng tại Lào.
Ở Việt Nam, nơi mà hầu như không có một con sông nào bên trong biên giới mà không có đập, ý kiến chuyên gia giờ đã chuyển mạnh sang chống lại các dự án thủy điện trên sông Mê Kông và các nhánh của nó. Như thường được đưa tin trên báo chí địa phương Việt Nam, các đập ở Trung Quốc, trên các nhánh của sông Mê Kông ở các vùng cao của Việt Nam, và trên hết sông này đến sông khác ở Lào, đã làm nghẽn đi dòng phù sa màu mỡ đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hàng năm và làm cạn kiệt nguồn cá ở đó.
Vek Kmeang lái con thuyền của anh lên con kênh giữa hai hòn đảo trên sông Mê Kông ở Campuchia lúc hoàng hôn. Khu vực đảo này dự kiến sẽ bị chìm trong nước nếu đập thủy điện Sambor được xây dựng theo kế hoạch. Hơn 19.000 người sẽ phải di dời bởi hồ chứa nước. Ảnh: Rod Harbinson/ Mongabay.
Trớ trêu là một công ty kĩ thuật và xây dựng có quan hệ chặt chẽ với chính phủ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đã thông báo rằng họ sẽ bắt đầu xây một nhà máy điện và đập trị giá 2 tỷ đô la, 1400 MWP trên sông Mê Kông ngay trên Luang Prabang năm 2020; công ty Chart Karnchang của Thái Lan dự kiến sẽ là một nhà thầu phụ lớn.
Campuchia và Lào, nước láng giềng phía thượng nguồn, sẵn sàng nhận viện trợ nước ngoài nhằm phủ xanh lưới điện của họ, nhưng cả hai nước này không cảm thấy có nhiều nghĩa vụ phải hạn chế dấu vết carbon. Nói tóm lại, mặc dù việc tạo ra điện từ than hoặc đập trên sông, đang ngày càng không mang lại lợi ích kinh tế, nhưng hai cách cũ này vẫn còn sức lôi kéo lớn.
Việc đưa vào lưới các dạng điện này, không chút chắc chắn công nghệ tốt sẽ đẩy lùi được công nghệ xấu, đặc biệt ở quy mô đáp ứng nhu cầu năng lượng đang phát triển nhanh chóng của khu vực lục địa Đông Nam Á.
Tuy nhiên, các nhà môi trường vẫn có thể mơ mộng. Một trong số đó là kỹ sư Mĩ gốc Việt, Phạm Long. Từ năm 1995, Quỹ Sinh thái Việt (Viet Ecology Foundation) của ông Long đã tích cực đối thoại giữa các chuyên gia trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài và các đối tác tại Việt Nam. Bây giờ ông đang thúc giục các nhà hoạch định chính sách ở Campuchia xem xét điều mơ ước của ông về một nhà máy năng lượng mặt trời nổi 28,5 GWP trên hồ lớn nhất Đông Nam Á, Tonle Sap (Biển Hồ).
Dự án “Mặt trời trên hồ” của ông Long táo bạo về quy mô: Ông đề xuất một dự án mặt trời nổi với quy mô được nâng lên hàng năm theo nhu cầu năng lượng đang tăng của Campuchia cho đến khi nó lớn gấp 590 lần nhà máy sản xuất năng lượng mặt trời Đa Mi ở Việt Nam đã đề cập ở trên, lớn gấp 70 lần nhà máy năng lượng mặt trời do NHI đề xuất trên hồ chứa hạ lưu Se San 2 của Campuchia, như là một phương cách thay thế cho dự án thủy điện Sambor, và tương đương với 47 nhà máy phát điện chạy bằng than cỡ trung bình.
Tonle Sap là một địa điểm lí tưởng cho một giàn năng lượng mặt trời nổi: Đó là một trong những nơi nắng nhất ở Đông Nam Á. Các tấm pin nghiêng về phía nam một góc 14 độ sẽ nhận được 2034 kilowatt giờ chiếu xạ trên một mét vuông mỗi năm.
Ông Long dự kiến rằng một hệ thống năng lượng mặt trời nổi trên hồ Tonle Sap có thể được xây với mức gia tăng diện tích 34 km² mỗi năm để theo kịp cơn khát điện của Campuchia. Ông Long giả định rằng, giá của các tấm pin mặt trời, hiện khoảng $800 / kilowatt giờ, sẽ giảm 2% mỗi năm và giá ắc quy trữ điện cũng sẽ giảm. Ngoài ra, cộng thêm chi phí vận hành và bảo trì, cùng chi phí kết nối với lưới điện quốc gia của Campuchia, ông Long tính toán rằng, giàn năng lượng mặt trời nổi có thể đáp ứng tất cả nhu cầu năng lượng của Campuchia từ năm 2020 đến năm 2045, và có thể xa hơn, với chi phí sản xuất diện qui dẫn là 7,73 US cent mỗi kilowatt giờ. Chi phí đó tương đương với chi phí xây nhiều đập mới trên dòng chính sông Mê Kông, và chưa bằng một nửa số tiền mà người tiêu dùng Campuchia hiện phải trả tiền điện.
Khi các tổn thất tránh được – bảo tồn thủy sản nội địa và đất nông nghiệp, và tạo việc làm cho dân số ven sông của Campuchia – được xét tới, giá điện năng được cân bằng từ dự án Mặt trời trên Hồ, theo tính toán của ông Long, giảm xuống chỉ còn 4,93 cent mỗi kilowatt giờ.
Ông Long không gợi ý ai sẽ cung cấp 31 tỷ đô la Mĩ mà ông ước tính sẽ cần để xây dựng dự án hồ Tonle Sap 330 km², 28,5 GWp. Các ngân hàng Trung Quốc sẽ sẵn sàng tài trợ cho một giàn năng lượng mặt trời nổi khổng lồ như họ đã từng cho vay để thực hiện các dự án thủy điện không? Điều đó hoàn toàn có thể nghiệm ra được; các nhà máy của Trung Quốc sản xuất hơn 60% nguồn cung cấp tấm pin mặt trời toàn cầu và kĩ sư của họ có nhiều kinh nghiệm xây dựng các cánh đồng năng lượng mặt trời. “Đó sẽ là một cơ hội lớn cho người Trung Quốc, chứng tỏ cho láng giềng của họ thấy rằng họ là những người anh em tốt”, ông Long nói.
Nếu không phải Trung Quốc, có thể các ngân hàng và nhà thầu phát triển phương Tây có thể bị thuyết phục để đẩy mạnh cơ hội có một không hai này giúp tránh thảm họa sinh thái và thu lợi từ việc này. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, có nhiều khả năng là họ sẽ tập trung vào ý tưởng năng lượng mặt trời nổi do NHI đề xuất, vốn muốn thúc đẩy các nhà máy thủy điện hiện có và các hồ chứa của chúng – 5 ở Campuchia và 9 ở Lào – để sản xuất thêm 5 gigawatt điện.
Greg Thomas, Giám đốc điều hành của NHI, giải thích rằng, việc đặt các giàn năng lượng mặt trời nổi ở cùng một chỗ với các nhà máy thủy điện hiện có, làm sản lượng điện tăng gần gấp đôi và giảm sự biến đổi của nó. Điều này là do hai chế độ phát điện bổ sung nhau. Ban ngày, các tuabin thủy điện có thể được hạ xuống, trừ khi cần thiết để cân bằng sự sụt giảm sản lượng điện mặt trời do các đám mây bay ngang qua gây ra. Ban đêm, tận dụng nguồn nước được thêm vào các hồ chứa lúc ban ngày, các tuabin có thể được chạy ở tốc độ cao hơn.
Thomas nói thêm rằng, việc thêm năng lượng mặt trời cho các đập hiện có, sẽ cho phép Lào đáp ứng được các mục tiêu xuất khẩu năng lượng đầy tham vọng của họ qua việc xây ít đập hơn, mang lại nguồn điện bổ sung lên dây dẫn nhanh hơn rất nhiều và với chi phí thấp hơn đáng kể.
Liệu những người ra quyết định ở Vientiane và Phnom Penh sẽ từ bỏ các dự án thủy điện mà họ đã chuẩn thuận từ nhiều năm trước, trước khi các tác động môi trường được hiểu một cách thoả đáng và khi các giải pháp năng lượng mặt trời và gió thay thế còn khó có thể tưởng tượng ra?
Ở Campuchia, Thủ tướng Hun Sen và một vài trợ lí được tin cậy, độc quyền ra quyết định. Kế hoạch phát triển năng lượng quốc gia sắp được cập nhật, một lần nữa rất có thể sẽ là một mớ hổ lốn các khả năng. Tình trạng thiếu điện kinh niên là một sự kìm hãm đối với sự tăng trưởng kinh tế của Campuchia, và hiểu biết thông thường cho rằng, cái được xây sẽ là bất cứ thứ gì mà ai đó sẵn sàng tài trợ với giá điện do EDC, công ty điện lực quốc gia, định ra. Tính cấp thiết của việc có thêm năng lượng đưa lên lưới sẽ làm năng lượng mặt trời được ưa chuộng hơn, đặc biệt là năng lượng mặt trời nổi, nhưng để điều đó trở thành một phần lớn của giải pháp, EDC sẽ phải cải thiện khả năng ổn định lưới điện.
Khi việc phát điện ở ‘quy mô tiện ích công’ từ gió và nắng (nổi hay không) được đẩy mạnh ở Thái Lan và Việt Nam, chính phủ Lào sẽ phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn. Họ phải đối mặt với khả năng rất thực tế là chi phí sản xuất điện giảm nhanh bên trong biên giới của chính họ, sẽ khiến cả Thái Lan lẫn Việt Nam bỏ ngang các cam kết mua điện từ Campuchia, nơi đã từng mang hi vọng sẽ là “Bình điện của Đông Nam Á”. Trong trường hợp đó, phát triển thuỷ điện thêm trên sông Mê Kông và các nhánh của nó, sẽ không còn có khả năng được cấp vốn.
Tác giả David Brown từng là nhà ngoại giao Hoa Kì, hiện viết các bài bình luận về vấn đề Việt Nam và các khu vực lân cận.
Bài phỏng vấn chung của CEIAS và IIR do Alfred Gerstl (AG) và Rudolf Fürst (RF) thực hiện với Bill Hayton, nghiên cứu viên thuộc Chương trình châu Á-Thái Bình Dương tại Chatham House.
AG: Tranh chấp lãnh thổ và biển ở biển Đông có dính dáng tới năm thành viên ASEAN - Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam - cũng như Trung Quốc (TQ) và Đài Loan. Hai bên sau có yêu sách không xác định đối với các đảo và các quyền khác trong một khu vực rộng lớn trên biển Đông, được minh họa bằng cái gọi là đường chín vạch hoặc đường chữ U được đánh dấu trên bản đồ. ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) đã cố gắng đàm phán Bộ quy tắc ứng xử (COC) với TQ từ năm 1996 nhưng cho đến nay cả COC lẫn các tranh chấp vẫn chưa được giải quyết. Hayton, ông có thể cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về các sự kiện mới nhất ở biển Đông?
Bill Hayton: Khi nghiên cứu những phát triển hiện tại ở biển Đông, nói chung chúng ta chỉ nghe những gì các chính phủ liên quan muốn nói với chúng ta. Tuy nhiên, công nghệ mới, bao gồm hình ảnh vệ tinh và dữ liệu theo dõi tàu, đã cho chúng ta các công cụ mới để hiểu những gì đang diễn ra.
Ngay bây giờ, vào tháng 9 năm 2019, hiện có hai khu vực đối đầu: một giữa TQ và Việt Nam tại một khu vực được gọi là bãi Tư Chính (Vanguard bank), và một khu vực khác giữa TQ và Malaysia của bờ biển Sarawak. Cả hai khu vực đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) tương ứng của Việt Nam và Malaysia. Vương Nghị, bộ trưởng Ngoại giao TQ, nói với các đồng nhiệm ASEAN rằng TQ coi các khu vực này là "đang có tranh chấp" nhưng ông không giải thích cơ sở pháp lí cho yêu sách của TQ đối với các khu vực trên biển này.
Đầu tháng 5 năm 2019, một giàn khoan hoạt động theo giấy phép của Malaysia đã bắt đầu khoan dầu ngoài khơi Sarawak gần một nhóm các rạn san hô được gọi là Luconia. Breakers. Khoảng một tuần sau, một tàu Cảnh sát biển đặc biệt của TQ, Haijing 35111 (Hải cảnh 35111), đã đến hiện trường. Vài ngày sau, nó bắt đầu quấy rối giàn khoan và các tàu tiếp tế. Vào giữa tháng 6, cũng tàu này đã di chuyển đến bãi Tư Chính và bắt đầu quấy rối hoạt động khoan khí đốt của Việt Nam diễn ra tại một khu vực biển được gọi là lô 06-01. Kể từ đó, các tàu khảo sát của TQ, được các tàu cảnh sát biển và dân quân bảo vệ đã thực hiện các cuộc khảo sát địa chấn trong EEZ của Việt Nam và Malaysia.
Các kế hoạch khoan ngoài khơi của Việt Nam từng chịu áp lực của TQ trước đây. Các nguồn tin trong ngành dầu khí nói với tôi rằng trong cả hai năm 2017 và 2018, chính phủ TQ đã đe dọa Việt Nam phải gánh chịu hậu quả nếu cho phép công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol khoan ở rìa EEZ của nước này. Cả hai hoạt động khoan đã bị hủy bỏ. Hiện tại có tin đồn về việc ExxonMobil sẽ rút khỏi một dự án khí khổng lồ được gọi là ‘Cá Voi Xanh' ngoài khơi miền trung Việt Nam. Mỏ khí này được cho là cung cấp năng lượng cho VN trong 20 năm. Nó nằm trong vòng 50 hải lí của bờ biển Việt Nam, gần Đà Nẵng và ngay bên ngoài đường chín đoạn của TQ. Tuy nhiên, tin đồn chưa được xác nhận và nếu Exxon rời khỏi Việt Nam thì lí do có nhiều khả năng là về thương mại hơn là chính trị, theo cái nhìn của tôi.
AG: Gần đây, cũng có những căng thẳng mới giữa TQ và Philippines xảy ra - mặc dù Tổng thống Duterte có quan hệ nói chung là thân thiện với Bắc Kinh.
Philippines phải đối mặt với một vấn đề lớn. Malampaya, mỏ khí lớn nhất của họ mà từ đó họ tạo ra 1/5 tổng số cung điện cho đất nước, dự kiến sẽ bắt đầu cạn kiệt vào năm 2024 hoặc không lâu sau đó. Được biết có một mỏ thay thế nằm bên dưới bãi Cỏ Rong (Reed Bank), xa bờ biển Philippines hơn. Vấn đề là TQ đã khẳng định yêu sách đối với mỏ này, dù cũng không đưa ra cơ sở pháp lí nào. Vào tháng 5 năm 2017, Tổng thống Duterte đã nói công khai rằng chính Chủ tịch Tập Cận Bình đã nói rằng sẽ có ‘chiến tranh' nếu Philippines cố khai thác khí đốt ở bãi Cỏ Rong mà không có sự đồng ý của TQ.
Vào tháng 11 năm 2018, Philippines và TQ đã kì Bản ghi nhớ về ’cùng phát triển mỏ khí đốt này. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu Philippines có đang mời ‘cùng khai thác’ thật sự, trong đó hai nước cùng chia sẻ các quyền chủ quyền hay không, hay chỉ đơn giản là một ‘liên doanh’ theo một thỏa thuận thương mại giữa hai công ty, hoạt động theo luật pháp Philippines. TQ muốn ‘cùng khai thác’, nhưng điều đó sẽ vi phạm hiến pháp và luật về tài nguyên quốc gia của Philippines. Không rõ liệu các khác biệt có thể thu hẹp được không. Các cuộc thảo luận hiện đang diễn ra.
AG: Mục tiêu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở biển Đông là gì?
TQ chỉ bắt đầu quan tâm của TQ ở biển Đông vào đầu thế kì 20 và yêu sách lãnh thổ của họ được phát triển trong các cuộc khủng hoảng đặc biệt vào năm 1909, 1933 và 1946. Trước hết, TQ quan tâm tới việc yêu sách các đảo nhỏ là một phần của lãnh thổ quốc gia. Một số quan chức đã hi vọng rằng các đảo này có thể giàu có về kinh tế, nhưng tình cảm yêu nước, ' đầy xúc cảm' là một lí do mạnh mẽ hơn để theo đuổi các yêu sách. Mãi đến những năm 1970, các chính phủ mới biết rằng có thể có các mỏ dầu và khí đốt quanh rìa biển Đông. Điều đó dẫn đến sự quan tâm mới ở TQ, nước này lần đầu tiên chiếm cứ các thể địa lí ở quần đảo Trường Sa vào năm 1988. Trong khi lãnh thổ và tài nguyên vẫn là động lực chính của các hành động của TQ, một động lực khác đã xuất hiện kể từ khi TQ phát triển tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân. Dường như ngày càng có nhiều khả năng TQ muốn xây dựng một 'pháo đài' an toàn để che giấu rào chắn hạt nhân.
AG: TQ theo đuổi loại chiến lược nào?
Một chiến lược ' pháo đài' như vậy đòi hỏi phải có sự kiểm soát gần như độc quyền vùng trung tâm của biển Đông, và do đó, loại bỏ các bên yêu sách khác và hải quân bên ngoài. Đây là lí do tại sao nhiều người nghĩ rằng TQ muốn xây dựng một đảo nhân tạo khác trên bãi cạn Scarborough, nằm cách đảo Luzon của Philippines khoảng 200 km. Vị trí này sẽ tạo thành điểm thứ ba của một 'tam giác chiến lược', cho phép TQ tung sức mạnh trên toàn bộ biển Đông. Chiến lược này cũng sẽ đòi hỏi các nguồn cung cấp điện được đảm bảo trên các căn cứ đảo để cung cấp năng lượng cho việc khử muối và việc dùng máy tính công suất cao, nhất là cho chiến tranh chống tàu ngầm (ASW). Đây có thể là lí do tại sao chúng ta đang thấy truyền thông TQ bàn về sự phát triển của các trạm phản ứng hạt nhân nổi. Việc triển khai các trạm này cũng sẽ là một sự rào chắn các hành động quân sự: ai muốn mạo hiểm ném bom một lò phản ứng hạt nhân?
Tôi thấy một tương lai rất gập ghềnh phía trước, vì Hoa kì và Nhật Bản kiên quyết duy trì sự hiện diện của họ trên biển và quyền Tự do lưu thông qua đó và hoàn thiện các kĩ năng săn tàu ngầm của mình.
AG: ASEAN có thể đóng vai trò gì trong việc giải quyết hoặc ít nhất là làm trung gian cho tranh chấp biển Đông?
Năm quốc gia ASEAN có liên quan trực tiếp đến các tranh chấp ở biển Đông: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều có các khác biệt với TQ về tài nguyên biển. Singapore cũng lo ngại về bất cứ điều gì có thể làm gián đoạn giao thương khu vực và sự thống trị của luật pháp quốc tế. Bốn quốc gia ASEAN khác ít quan tâm đến vấn đề này và đặc biệt là Campuchia đã trở thành tay trong của TQ về các vấn đề biển Đông trong tổ chức này. Người ta có thể nói rằng Campuchia đối với ASEAN giống như Hungary đối với Liên minh châu u! Trong những năm gần đây, Campuchia đã ngăn chặn sự đồng thuận mạnh mẽ xuất hiện bên trong ASEAN về biển Đông. Điều khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn là các nước Đông Nam Á có yêu sách đã không giải quyết được tất cả các tranh chấp trên biển của họ với nhau. Nếu họ đã làm việc đó thì họ sẽ ở một vị thế mạnh mẽ hơn nhiều trong việc thể hiện một bộ mặt thống nhất với TQ.
Trong năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành Chủ tịch ASEAN và có khả năng sẽ dấn tới vấn đề biển Đông, cố gắng thúc đẩy sự đồng thuận về Bộ Quy tắc ứng xử. Một mục tiêu khác có thể là đạt được sự chấp thuận cho các cuộc tập trận hải quân ASEAN tiếp với Mỹ. TQ có thể giữ thế đứng ngoài trong thời gian Việt Nam làm chủ tịch chờ nhiệm kì chủ tịch kế thân thiện với TQ hơn. Nói chung, chúng ta không thể mong đợi những thay đổi lớn về ảnh hưởng của ASEAN với tư cách là một diễn viên ở biển Đông.
AG: Theo quan điểm của ông, tranh chấp ở biển Đông có thể giải quyết như thế nào?
Hiện trạng ở biển Đông không phải là một tình huống quá tồi tệ. Có một sự ổn định nào đó, ít nhất là về các tranh chấp lãnh thổ. Sức mạnh quân sự của TQ là vượt trội so với các nước yêu sách Đông Nam Á. Câu hỏi mà các nhà lãnh đạo TQ phải trả lời là liệu họ có ý định sử dụng sức mạnh đó để đảy các yêu sách lãnh thổ của họ tiến tới hay không. Các bên yêu sách Đông Nam Á không có lựa chọn quân sự này, nhưng quan trọng hơn, họ đã nói rõ rằng họ không có ý tìm cách đẩy các bên khác ra khỏi đảo nhỏ và rạn san hô mà các bên này hiện đang chiếm giữ. TQ cũng nên làm như vậy.
Để giải quyết tranh chấp,có thể dùng các công cụ luật pháp quốc tế hiện có. Năm 2008, Tòa Công lí Quốc tế đã có thể quyết định quyền sở hữu các thể địa lí đang tranh chấp ở eo biển Singapore. Dựa vào bằng chứng lịch sử, toà phán rằng Pedra Branca, nơi Singapore có xây một đèn biển, thuộc về Singapore và Middle Rocks thuộc về Malaysia. Hai thể địa lí này chỉ cách nhau một kilomet. Biển Đông không khó khăn hơn về mặt pháp lí nhưng không nước nào trong số các bên yêu sách sẵn sàng đưa các yêu sách lãnh thổ của họ ra thử thách tại một tòa án quốc tế.
Tôi sẽ lập luận rằng, về tổng thể, lợi ích chiến lược rộng lớn hơn của TQ nằm ở mối quan hệ hòa bình và ổn định trong khu vực lân cận họ và những lợi ích đó bị tổn hại do việc họ theo đuổi yêu sách lãnh thổ đang tranh chấp. TQ sẽ có được mối quan hệ tốt hơn với Đông Nam Á nếu họ nói rõ rằng họ sẵn sàng thỏa hiệp về các tranh chấp lãnh thổ. Nói một cách đơn giản, nếu mỗi bên có yêu sách đồng ý giữ các thể địa lí mà họ hiện đang chiếm giữ và ngưng yêu sách các thể địa lí khác thì tình huống có thể được giải quyết tương đối nhanh chóng.
RF: Ý kiến của ông về việc quân sự hóa biển Đông là gì?
Chà, khi từ 'quân sự hóa' này lần đầu được sử dụng, nó có một ý nghĩa rất cụ thể. Nó đề cập đến các đảo mới của TQ, bảy đảo mà TQ tạo ra ở phần phía nam của biển Đông, ở Trường Sa. Do vậy, Tập Cận Bình đã cam kết là không quân sự hóa các thể địa lí mới này. Nhưng kể từ đó, chúng ta đã thấy một số loại thiết bị quân sự được đặt ở đó, tên lửa và vv. Thế thì điều tranh cãi là định nghĩa quân sự hóa ra sao. Người TQ sẽ nói, "chúng tôi đã lắp đặt các hệ thống phòng thủ ở đó và chúng tôi không xem đó là quân sự hóa.” Quân đội các nước Đông Nam Á, bây giờ thấy mình trong tầm bắn của các tên lửa đó, tất nhiên sẽ không đồng ý, Mĩ và Nhật Bản cũng vậy. Tất nhiên, biển Đông nói chung được quân sự hóa theo nghĩa mà ta thấy các tàu hải quân đi ngang qua và các cuộc tập trận quân sự và tất cả cáci hành động loại này.
Điều duy nhất mà chúng ta chưa thấy là máy bay tấn công của TQ đậu trên các đường băng mới được xây dựng. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng ở đó để việc này xảy ra - nhưng chưa xảy ra thôi. Đó sẽ là một bước to tát nếu TQ làm điều đó.
RF: Theo bất kì giá nào, không gian của biển Đông là một vấn đề an ninh cấp bách. Ông có tin rằng Liên minh châu nên đông lòng có một thái độ chung hay môt tuyên bố chung nào không?
Tôi nghĩ rằng có nhiều cách khác nhau mà tôi nghĩ rằng điều này ảnh hưởng đến lợi ích của EU. Câu hỏi lớn, không may là khá mơ hồ, là tình hình ở biển Đông có nguy cơ làm suy yếu trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. EU về cơ bản là một tổ chức dựa trên luật lệ : tổ chức này tìm kiếm sự công bằng và cởi mở trong cách các quốc gia cư xử với nhau. Tất cả các quốc gia liên quan đến tranh chấp biển Đông đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), tuy nhiên chúng ta thấy hành vi gần đây của TQ đối với Việt Nam và Malaysia rõ ràng vi phạm các quyền của quốc gia khác theo UNCLOS. Vì vậy, tôi nghĩ rằng điều quan trọng là EU phải đẩy xa hơn là chỉ nói rằng họ ủng hộ UNCLOS và các tranh chấp cần được giải quyết theo UNCLOS. Tôi nghĩ bây giờ họ nên điểm mặt chỉ tên nước thực sự vi phạm UNCLOS, và trong trường hợp này thật ra chính là TQ. Tôi không có bất kì kì vọng nào rằng EU sẽ cùng với nhau, chẳng hạn, tổ chức một loại hiện diện hải quân hoặc cảnh sát biển nào đó ở biển Đông, mặc dù tôi nghĩ rằng một số nước thành viên có thể làm điều đó. Nhưng tôi nghĩ có nhiều cách mà EU có thể đưa ra quan điểm về những yêu sách nào đối với tài nguyên năng lượng và cá tôm ở biển Đông là hợp pháp và giúp các nước ven biển quản lí các tài nguyên đó. EU thậm chí có thể quan tâm đến việc thực hiện một sứ mệnh nào đó kiểu như quan sát theo dõi rồi công bố các vi phạm UNCLOS. Tôi nghĩ rằng EU cần phải nhận ra rằng theo nhiều cách, họ đã can dự. EU mua rất nhiều cá từ các quốc gia này và cần phải suy nghĩ về tính bền vững của nguồn cá đó, những gì đang được thực hiện để quản lí và bảo vệ nguồn cả đó. EU thực hiện nhiều giao thương với khu vực này và các tàu buôn của họ chạy ngang qua biển này. Nhiều nước châu u, chẳng hạn như Anh, Pháp và Hà Lan, có mối quan hệ lịch sử lâu dài với các đất nước này. Vì vậy, châu u đã can dự vào phần này của thế giới. Việc duy trì tổng thể hòa bình và ổn định quốc tế đòi hỏi EU phải để mắt đến những gì đang xảy ra ở đó.
Bill Hayton là nghiên cứu viên với Chương trình châu Á-Thái Bình Dương tại Chatham House, thành viên của Hiệp hội Địa lí Hoàng gia và là một nhà báo toàn thời gian với BBC News ở London. Năm 2006/7, ông là phóng viên của BBC tại Việt Nam và năm 2013, ông đã dành một năm để cố vấn cho đài truyền hình nhà nước Myanmar về cải cách truyền thông. Ông là tác giả của “Vietnam: Rising Dragon” (Việt Nam: con Rồng đang trỗi dậy) (Yale, 2010), “The South China Sea: the struggle for power in Asia” (Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực ở châu Á (Yale, 2014) và “The invention of China” (Yale, sắp xuất bản). Ông viết về sự phát triển chính trị và khu vực ở Đông Nam Á và gần đây đã nhận được bằng tiến sĩ từ Đại học Cambridge. Alfred Gerstl, Marie Sklodowska-Curie thành viên nghiên cứu cá nhân tại Khoa nghiên cứu châu Á, Đại học Palackì, Olomouc và Chủ tịch Viện nghiên cứu châu Á Trung u. Rudolf Fürst, trưởng Trung tâm EU-Châu Á, IIR, Prague
THỬ BÀN VỀ VIỆC KIỆN GÌ, KIỆN NHƯ THẾ NÀO NHÂN VỤ HYDZ-8
(Bài đăng trên TTCT ngày 13/10/2019 đã qua biên tập)
Gần 3 tháng nay tàu Địa chất biển 8 (HYDZ-8) của TQ ngang nhiên tiến hành khảo sát địa chấn trong khu vực gần bãi Tư Chính, tàu hải cảnh của TQ cũng nghênh ngang quấy phá các hoạt động thăm dò khảo sát dầu khí của ta ở lô 06/01. Cả hai khu vực này đều nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) (xem bản đồ 1). Chính phủ VN đã có nhiều nỗ lực tìm cách giải quyết các vụ xâm phạm này qua đường ngoại giao ở nhiều cấp nhưng xem ra phía TQ vẫn càng lấn tới. Một cuộc chiến tranh trên biển để giải quyết vấn đề chắc chắn là không phù hợp với vị thế của đất nước, lòng yêu chuộng hoà bình của dân tộc và xu hướng quốc tế trong thời đại hiện nay. Do đó, có vẻ chỉ còn biện pháp pháp lí là phù hợp hơn cả: kiện TQ ra toà án quốc tế, điều mà chắc hẳn Chính phủ VN cũng có tính tới và chuẩn bị, và đông đảo công dân cũng đang mong mỏi. Tuy nhiên, có thể kiện gì và kiện như thế nào để giải quyết vấn đề theo đúng pháp luật quốc tế là điều cần xem xét.
Bản đồ 1: khu vực HYDZ-8 khảo sát và lô 06/01 nằm trọn trong EEZ/thềm lục địa của VN
Trước nhất, đúng là tàu khảo sát, tàu CSB và cả tàu dân quân biển của TQ xâm phạm EEZ của VN. Khu vực khảo sát này cách đảo Hải Nam từ 480 đến hơn 600 hải lí, cách quần đảo Hoàng Sa mà họ đang chiếm đóng và cũng tự cho là có EEZ, từ 350 đến 480 hải lí, cách đảo Ba Bình (đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa mà phán quyết ngày 1207/2016 của Toà Trọng tài (PCA) kết luận là không thể có EEZ mà chỉ có lãnh hải 12 hải lí) từ 170 đến 310 hải lí. Còn lô 06/01 cách những nơi đó còn xa hơn nữa: cách Hải Nam, Hoàng Sa, Ba Bình tương ứng 624-640, 495-520, 345-370 hải lí, Do đó. không thể viện dẫn quy định nào trong Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS) để nói hai khu vực này thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của TQ bởi vì lãnh hải, EEZ, thềm lục địa không thể vượt khỏi lãnh thổ đang có chủ quyền quá 12, 200 hay 350 hải lí, thậm chí không thể vượt quá trung tuyến tương ứng (có điều chỉnh gần đảo hơn theo nguyên tắc công bằng) khi có chồng lấn với bên khác. Lưu ý thêm rằng lô 06/01 cách bãi Tư Chính, một bãi ngầm với chỗ cạn nhất cách mặt biển 16 m, khoảng 25 hải lí. Theo luật quốc tế thì bãi ngầm được xem là phần của đáy biển, không sở hữu được và do đó cũng không thể sinh ra quyền gì. Dù với thực tế như vừa nêu, TQ vẫn ngang ngược nói rằng các vùng biển mà tàu họ đang hoạt động phi pháp thuộc quyền tài phán của họ, cụ thể còn cho rằng họ có quyền chủ quyền và quyền tài phán ở bãi Tư Chính và các vùng biển liên quan. Do đó, để có thể kiện TQ về việc xâm phạm EEZ của VN thì trước nhất phải bác bỏ được lập luận này của họ, tức là phải xác lập đươc rằng khu vực đang bị xâm phạm thuộc về EEZ của chỉ riêng VN, không dính dáng gì đến các vùng biển của TQ. TQ đã kí kết và phê chuẩn UNCLOS nên xem như đã tự nguyện bị ràng buộc bởi các quy định của điều ước này trừ những quy định mà họ đã tuyên bố bảo lưu. Do đó, VN hoàn toàn có thể thực hiện việc kiện qua trong tài quốc tế như Philippines đã làm theo các thủ tục quy định trong mục 2 phần XV của UNCLOS, dù TQ có đồng ý hay không.
Nhưng cụ thể là những gì? Điều này phụ thuộc vào lập luận cụ thể của TQ. Hiện nay TQ cố ý mập mờ, không đưa ra lí giải cụ thể nên chúng ta chỉ có thể suy đoán dựa trên các tuyến bố đã biết và hành động của họ. Tuyên bố mới đây ngày 18/9/2019 của Bộ ngoại giao TQ cho rằng đòi hỏi phi lí này là căn cứ theo luật và lịch sử. Các khu vực này, như đã phân tích ở trên, không thể dựa vào quy định nào trong luật quốc tế và UNCLOS để khẳng định rằng TQ có quyền gì ở đó, ngay cả khi giả định Trường Sa và Hoàng Sa thuộc về họ. Do đó, thứ luật mà họ nói chỉ có thể là luật của TQ hay luật quốc tế giải thích theo cách của TQ. Còn lịch sử mà họ dựa vào cũng chỉ là thứ lịch sử do họ thêu dệt. Sự thật lịch sử cho thấy TQ chưa bao giờ độc quyền trong việc sử dụng biển Đông hay thể hiện bất cứ quyền gì, dù theo nghĩa lỏng lẻo nhất, trên biển này hay đặc biệt trên các khu vực họ đang xâm phạm, ngoại trừ những hành vì bắt nạt trong vài năm gần đây. Như vậy, có vẻ các suy đoán do Greg Poling, giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch biến châu Á (AMTI), đưa ra trên twitter hôm 19/9/2019 mới phù hợp với thứ luật và thứ lịch sử đó. Theo Poling có thể có các khả năng sau:
- TQ cho rằng quần đảo Trường Sa mà họ nhận vơ là của họ, có lãnh hải, EEZ… như một thể thống nhất và vạch đường cơ sở chung để từ đó phóng ra các vùng biển này như đã làm với quần đảo Hoàng Sa, mặc dù luật lệ quốc tế và UNCLOS không cho phép như vậy và phán quyết của trọng tài khẳng định lại điều đó.
- TQ gôm Tư Chính cùng các các bãi ngầm khác quanh đó vào quần đảo Trường Sa và cho rằng 'quần đảo' mở rộng như thế cũng có lãnh hải, EEZ… chung như thể thống nhất và cũng thưc hiện việc vẽ đường cơ sở chung và từ đó phóng ra lãnh hải, EEZ... như trong cách trên, dù luât lệ quốc tế và UNCLOS chỉ xem nhưng bãi ngầm như thế là phần của đáy biển không sở hữu và đói chủ quyền được.
- TQ vẫn đang dùng đường lưỡi bò (ĐLB) với cái gọi là quyền lịch sử để đòi tất cả mọi thứ bên trong đường này, dù tránh đề cập tới nó trong các phát ngôn sau khi phán quyết của trọng tài trong vụ kiện của Philippines năm 2016 khẳng định nó không có cơ ở trong luật lệ quốc tế và vô hiệu lực.
Có thể thấy các suy đoán trên dựa vào luật và lịch sử ‘kiểu TQ’. Đường cơ sở chung trong hai cách đầu có thể suy từ tuyên bố của TQ ngày 15/5/1996 về đường cơ sở và lãnh hải, trong đó có xác định đường cơ sở thẳng cho quần đảo Hoàng Sa như một nhóm, và cho biết sẽ xác định đường cơ sở thẳng cho các nhóm đảo khác sau. Nhận xét mới đây của PGS Douglas Guilfoyle, chủ trì nhóm nghiên cứu an ninh biển ĐH NSW Australia, củng cố thêm suy đoán này. Theo Guilfoyle, từ sau phán quyết của trọng tài 2016 TQ “đã quay trở lại phiên bản về lập luận ‘quần đảo xa bờ’ mà họ từ bỏ trước đây trong các cuộc đàm phán UNCLOS, một lập luận được Hội Luật Quốc tế TQ hồi sinh trong bài ‘nghiên cứu có phê phán’ về phán quyết của trọng tài vụ Philippines kiện Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc khẳng định rằng họ có thể gộp nhiều thể địa lí biển khác nhau nhập thành ‘quần đảo, bao chúng trong đường cơ sở thẳng và từ đó phóng ra EEZ”. Còn đường cơ sở lạ lùng bao cả các bãi ngầm để tính lãnh hải, EEZ… cũng có thể suy từ Tuyên bố về lãnh hải của TQ ngày 04/09/1958. Tuyên bố này có nói tới việc vẽ đường cơ sở cho cả Macclesfield, môt bãi ngầm mà TQ gọi là “quần đảo” Trung Sa có chỗ cạn nhất cách mặt biển hơn 9 m! Tuyên bố phê chuẩn UNCLOS ngày 7/6/1996 của TQ có thể dùng để suy đoán việc đòi EEZ tối đa rồi thương lượng phân giới sau. Tuyên bố đó có nói rằng “TQ được quyền hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán trên EEZ 200 hải lí và thềm lục địa”.
Bản đồ 2 cho thấy các EEZ mà TQ có thể đòi theo hai cách lí giải đầu từ các kiểu đường cơ sở thẳng khác nhau mà nhóm của Poling nghiên cứu vẽ ra tháng 3/2019. Có thế thấy các EEZ này phủ kín hầu hết diện tích ĐLB và có nhiều phần vượt quá ĐLB.
Bản đồ 2: EEZ mà TQ muốn đòi theo cách của họ (theo Poling)
- dạng (khả năng) 1 hay 2: đòi EEZ đầy đủ từ 'nguyên nhóm đảo" kể cả bãi ngầm, tuân thủ một phần hay phớt lờ các hạn chế về đường cơ sở quy định trong UNCLOS (như mỗi đoạn của nó không quá 100 hải lí…)
- dạng 3 hay 4: đòi EEZ tối đa từ 'nguyên nhóm đảo nổi kể cả các bãi triều thấp lân cận hay được biển thành đảo nhân tạo như Vành Khăn, tuân thủ một phần hay phớt lờ các hạn chế về đường cơ sở quy định trong UNCLOS
Việc TQ duy trì yêu sách ĐLB, dù không nói rõ ra, có thể suy đoán từ các hành động hiếp đáp ngư dân, cấm đánh cá đơn phương, các hành động quấy nhiễu của tàu hải cảnh và tàu khảo sát của TQ sâu trong EEZ hay ở những khu vực biển mà các EEZ theo hai cách suy đoán đầu không phủ tới của các nước ven biển Đông từ sau phán quyết 2016. Đặc biệt, điều 14 luật về EEZ và thềm lục địa ngày 26/6/1998 của TQ cùng các tuyên bố có nói tới quyền lịch sử sau phán quyết 2016 cũng cho thấy suy đoán cuối về yêu sách ĐLB vẫn cần xét tới.
Hiện nay, như đã nói, TQ vẫn mập mờ, không nêu cụ thể họ dựa vào điều gì để yêu sách như thế nên có nhiều khả năng họ áp dụng cả ba cách nêu trên để khi bị đuối lí cách này thì còn viện tới cách kia (theo kiểu 'lọt sàng còn nia', như có học giả của họ có lần giải thích qua khái niệm 'bảo hiểm kép'). Lưu ý thêm rằng, Hội Luật quốc tế của TQ, trong thư ngày 19/9/2019 trả lời thư mở của Hội luật quốc tế Việt Nam ngày 24/8/2019, có vẻ cũng gần như lí giải theo các cách nêu trên. Họ cũng đề cập tới quyền lịch sử, coi quần đảo Trường Sa là một thể thống nhất với đường cơ sở chung, có nội thuỷ, lãnh hải, EEZ, thềm lục địa… Hội này là một tổ chức ngoại vi trong hệ thống nhà nước TQ nên ý kiến của họ có thể xem như một lí giải bán chính thức của TQ. Do đó, nội dung kiện có lẽ phải bao gồm tất cả điều trên, tức là phải nhờ trọng tài xác nhận lại ĐLB là vô hiệu lực, quần đảo Trường Sa không thể coi là một thể thống nhất để đòi lãnh hải, EEZ … và không được phép vẽ đường cơ sở chung để làm điều đó, không có thể địa lí nào trong quần đảo này có EEZ, thể địa lí ngầm như bãi Tư Chính thì không thể đòi sở hữu, và cũng không thể coi những điều đó là trường hợp riêng ngoài quy định của UNCLOS. Đó cũng là những nội dung mà toà hoàn toàn có thể thụ lí và xử được vì chỉ liên quan tới các quy định của UNCLOS ngoài nhưng điều TQ bảo lưu.
Những nội dung này nói chung gần giống và có phần lăp lại các nội dung trong vụ kiện của Philippines nhưng e rằng chúng ta phải lặp lại vì theo UNCLOS “mọi quyết định [của toà/trọng tài] chỉ có hiệu lực ràng buộc giữa các bên tranh chấp và trong vụ tranh chấp cụ thể đó” (điều 296.2). Phán quyết trọng tài trong vụ kiện của Philippines cũng tuân đúng theo quy định này. Chẳng hạn về ĐLB, phán quyết nêu rõ “giữa Philippines và TQ với nhau, các yêu sách của TQ đối với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hay quyền tài phán khác, liên quan đến các khu vực biển của biển Đông nằm bên trong phần tương ứng của ‘đường 9 đoạn’ là trái với UNCLOS và không có hiệu lực pháp lí do vượt quá các giới hạn về địa lí và cốt yếu của các quyền lợi biển của Trung Quốc được có theo UNCLOS…”
Ngoài những nội dung trên, chúng ta có thể tranh thủ nhờ trọng tài khẳng định những nội dung tương tự cho quần đảo Hoàng Sa với lí do họ đã hà hiếp ngư dân VN, quấy rối việc thăm dò, khảo sát dầu khí trong EEZ của ta gần quần đảo này mà các biện pháp giải quyết qua đường ngoại giao như tham vấn, trao đổi... vẫn không có kết quả. Ở đây, cũng có thể thêm nội dung nhờ trọng tài khẳng định quyền đánh cá của ngư dân ta trong ngư trường truyền thống Hoàng Sa (lẫn Trường Sa).
Tóm lại, nếu được tòa xác nhận những nội dung trên và bất chấp chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa thuộc về ai thì các khoảnh biển mà hai quần đảo này được có theo luật lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS chỉ là những đốm xanh (lãnh hải của các đảo nổi) tương ứng trong bản đồ 3. Do đó, EEZ của VN (phần tô tím trên bđ 3) chồng lấn không đáng kể các khoảnh biển đó, chủ yếu tại lãnh hải của một vài đảo nổi mà thôi. Như vậy, ngay cả giả định Trường Sa và Hoàng Sa thuộc TQ, thì tuyên bố của họ rằng khu vực HYDZ-8 khảo sát hay lô 06/01 thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của họ là hoàn toàn sai trái (xem bản đồ 4).
Bản đồ 3: Nếu thắng kiện theo các nội dung đề xuất thì các khoảnh biển mà các đảo trên biển Đông có được theo luật biển chỉ là các đốm xanh chứ không như trong bản đồ 2.
(Lưu ý: EEZ hai bên đoạn từ cửa vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa chồng lấn chưa phân định nên tạm vẽ theo trung tuyến)
Bản đồ 4: ngay cả giả định Trường Sa và Hoàng Sa thuộc TQ, thì khu vực HYDZ-8 khảo sát hay lô 06/01 vẫn hoàn toàn nằm ngoài vùng biển hoh có quyền chủ quyền và quyền tài phán (các đốm xanh)
Tới đây có thể có câu hỏi sau: Do lập luận của TQ có dựa vào việc cho rằng họ có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa), thế sao chúng ta không kiện thẳng họ về chủ quyền cho dứt điểm mọi thứ? Trong quan hệ quốc tế, mỗi nước là một thực thể có chủ quyền, nên có quyền chọn cách giải quyết tranh chấp theo ý mình, toà chỉ xử được khi các bên liên quan tự nguyện chấp nhận cùng nhau ra toà (trực tiếp qua các tuyên bố đơn phương, qua các thoả thuận riêng, hoặc gián tiếp qua các điều ước quốc tế đã kí kết). TQ không là ngoại lệ và rất tiếc là họ đã tuyên bố chỉ chọn cách 'tham vấn hữu nghị' hay đàm phán song phương để giải quyết các tranh chấp liên quan đến chủ quyền (để họ có thể ‘lấy thịt đè người’), không chấp nhận cách nhờ toà phân xử. Do đó, hiện nay việc kiện TQ về chủ quyền là bất khả, trừ khi họ có một chính phủ biết lẽ phải hơn rút lại tuyên bố đó.
Từ đó, có thể nẩy ra câu hỏi: Đồng ý rằng không kiện được chủ quyền, thế sao gác vấn đề chủ quyền lại rồi kiện nhờ trọng tài xác định phân định ranh giới biển cho khu vực biển giữa VN và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (và cả Hoàng Sa) sau cho tiện việc? Rất tiếc là cũng không thể kiện TQ về việc phân giới vì họ đã dựa vào điều 298 UNCLOS tuyên bố không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc liên quan tới phân giới biển từ 25/8/2006.
Cũng lưu ý rằng dù luật có quy định các điều liên quan đến kiện tụng nhưng những người soạn luât vẫn muốn các bên hạn chế việc giải quyết tranh chấp thông qua toà án. Do đó, trong luật có quy định nhiều điều kiện các bên phải thoả mãn trước khi đưa tranh chấp ra trước toà. Chẳng hạn, phải chứng minh đang có tranh chấp và các bên đã nổ lực hết mức đề giải quyết tranh chấp qua thương lượng, tham vấn ngoại giao... nhưng không đạt kết quả. Hơn nữa, việc kiện tụng cũng phải không bị ràng buộc bởi những thoả thuận mà các bên đã kí.
Thực tế trên biển gần 3 tháng nay và thậm chí trước đó với lời qua tiếng lại của đôi bên nên sự tồn tại của tranh chấp gần như hiển nhiên, không khó chứng minh. Về việc thực hiện các biện pháp tiền kiện tụng thì có vẻ chính phủ VN cũng đã tiến hành đúng mức. Đối với việc ràng buộc bở các thoả thuận đã có, TQ có phê phán rằng ta vi phạm các ràng buộc trong tuyên bố về cách ứng xử các bên trên biển Đông năm 2002 (DOC) và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề tranh chấp trên biển 11/10/2011” của 2 nước. Đối với ràng buộc của DOC, Trọng tài vụ Philippines kiện TQ đã xác định rằng điểm 5 và toàn bộ lời lẽ trong DOC không hề có nội dung nào loại trừ việc tìm kiếm phương thức giải quyết tranh chấp khác ngoài tham vấn và thương lượng song phương. Thoả thuận 11/10/201 cũng gần tương tự như vậy, dù chưa qua soát xét của trọng tài, nhưng chắc sẽ có cùng kết luận.
Tóm lại, VN có thể kiện theo nội dung và cách thức gần như Philippines đã làm. Đặc biệt, trong vụ kiện của Philippines có nội dung về bãi Cỏ Rong, vốn là bãi ngầm cách mặt biển từ 9 đến 45 m trong EEZ của nước này, tình trạng rất tương tự với bãi Tư Chính của chúng ta. Philippines đã thắng thì cơ hội chúng ta thắng còn cao hơn nữa. Vấn đề cuối cùng là kiện vào lúc nào để vừa không lỡ cơ hội vừa tối ưu hóa kết quả và hạn chế các tác động xấu chắc chắn sẽ có của vụ kiện. Điều này tùy thuộc vào sự cân nhắc thiệt hơn của các cấp có trách nhiệm trên tinh thần mang lại điều tốt nhất cho đất nước và nhân dân.
(Bài viết được những ý kiến đóng góp quý báu của gs Phạm Quang Tuấn và ts Dương Danh Huy)