Wednesday, January 4, 2017

Trung Quốc và thế giới

Trung Quốc và thế giới

Đối phó với một cường quốc miễn cưỡng

China and the World
Dealing With a Reluctant Power

Evan A. Feigenbaum
FA (tháng 1/2 năm 2017)

(Bản dịch đã đăng trên TCTD ngày 5/01//2017)

Hiệu đính: Nguyễn Huy Vũ


Năm 2013, Trung Quốc (TQ) đã đưa ra sáng kiến thành lập một tổ chức phát triển đa phương mới, Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank / AIIB). Theo Bắc Kinh, AIIB có thể giúp lấp đầy khoảng trống nhiều nghìn tỉ đô la tài trợ cho đường sắt, đường bộ, nhà máy điện, và cơ sở hạ tầng khác trong khu vực phát triển nhanh nhất này của thế giới. Nhưng Hoa Kì đã coi đề xuất của TQ như là một thách thức đối với các tổ chức phát triển khu vực và toàn cầu hiện có mà Hoa Kì đã giúp thiết lập trong những thập niên sau Thế Chiến II. Washington không những tự mình từ chối gia nhập ngân hàng này mà còn phát động một chiến dịch ngoại giao thầm lặng can ngăn các đồng minh cũng đừng tham gia.

Washington cho rằng tổ chức mới này có thể làm suy yếu hệ thống hiện có qua việc cung cấp đầu tư mà không áp đặt các tiêu chuẩn chống tham nhũng và môi trường được các nhóm hiện có sử dụng. Và một số người ở Washington cũng suy diễn rằng Bắc Kinh có một mục đích sâu xa hơn: đó là xây dựng một bộ các tổ chức quốc tế thay thế theo định hướng của TQ không chịu sự khống chế của Hoa Kì lẫn các giá trị tự do được Hoa Kì và các nước dân chủ công nghiệp khác tán dương.

Nhiều người tin rằng lo lắng nêu trên của Washington về các chuẩn mực thực ra che dấu mối quan ngại địa chính trị mà ngân hàng đó là bước đầu tiên trong nỗ lực của Bắc Kinh nhằm xây dựng một trật tự thế giới lấy TQ là trung tâm (Sinocentric).

Các nỗ lực của Hoa Kì nhằm ngăn chặn hoặc đẩy AIIB ra bên lề đều thất bại thảm hại. Ngân hàng này đã được tung ra vào năm 2015, và vào giữa năm tới, một loạt các đồng minh thân cận của Mĩ, bao gồm Úc, Canada, Pháp, Đức, Israel, Hàn Quốc, và Vương quốc Anh (mặc dù với ngoại lệ đáng chú ý là Nhật Bản), đã không nghe theo Washington và đã đăng kí tham gia.

Washington có thể đã hiểu sai ý định của rất nhiều đồng minh của mình và rốt cuộc đi tới việc tự cô lập bản thân mình hơn là Bắc Kinh như thế nào? Họ có thể xử lí sáng kiến của TQ khác hơn không? Và thất bại của Washington nói lên điều gì về cơ hội của của Hoa Kì trong việc thúc đẩy Bắc Kinh hội nhập hơn nữa vào trật tự hiện có? Những câu trả lời không ăn nhập gì nhiều tới các chi tiết của ngân hàng mới hay việc chi cho cơ sở hạ tầng châu Á. Thay vào đó, chúng đòi hỏi một sự hiểu biết cân bằng về vai trò mà TQ đã bắt đầu giữ trong quan hệ quốc tế đương đại và những thách thức nghiêm trọng mà Bắc Kinh đặt ra.

Quan trọng nhất, TQ là một cường quốc phá hoại chứ không phải là một cường quốc cách mạng. Tầm vóc, của cải, và chính sách đối ngoại quyết đoán của TQ đưa nước này tới việc đòi hỏi có những thay đổi đáng kể đối với các tổ chức hiện có, nhưng TQ không tìm cách lật đổ trật tự quốc tế hiện hành nói chung. Chỉ nửa thế kỉ trước, TQ của Mao Trạch Đông mới thực sự đưa ra một tầm nhìn có tính cách mạng một cách rõ rệt về chính trị thế giới và vai trò của TQ trong đó. Hiện nay, ngược lại, Bắc Kinh kiên trì theo đuổi lợi ích quốc gia và các yêu sách lãnh thổ nhưng lại thiếu một hệ thống cố kết thay thế cho hệ thống hiện hành và họ thực sự đang là thành viên của gần như tất cả những tổ chức lớn hiện có. Tuy nhiên, TQ lại là một kẻ dự phần miễn cưỡng—ở trong lều, nhưng vẫn còn nước đôi và thường không hài lòng.

Sự trỗi dậy lạ thường của TQ trong những thập niên gần đây đã tạo đòn bẩy để họ yêu cầu có một tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề quốc tế. Họ đã có được sức mạnh quân sự đang tăng, hàng nghìn tỉ USD trong dự trữ ngoại hối có thể được chu chuyển thành các khoản đầu tư trực tiếp, và ảnh hưởng mới ở các nước đang phát triển từ châu Phi tới Trung Á. Những sự kiện này nói lên rằng Bắc Kinh bây giờ có thể hoặc là ủng hộ hay phá hoại nền quản trị khu vực và toàn cầu.

Đối phó với sự trỗi dậy và chủ nghĩa xét lại của TQ sẽ đòi hỏi sáng tạo và sự gắn kết chiến lược lớn hơn so với phương Tây thể hiện cho đến nay.


CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA

Gần đây nhất là vào thập niên 1960 và 1970, một TQ rất khác đã tìm cách lật đổ phần lớn hệ thống quốc tế.

Mao cô lập nên kinh tế và xã hội của đất nước với hầu hết các ảnh hưởng bên ngoài, chống đối gần như mọi tổ chức lớn trên toàn cầu, và đưa ra một tầm nhìn mang tính cách mạng về một trật tự toàn cầu chống chủ nghĩa tư bản. Điều này đã đi xa hơn những hô hào bốc lửa: TQ khuyến khích cách mạng thường là bạo động nội bộ chống lại chính phủ ở nhiều nước, từ Bolivia tới Borneo.

Hiện nay, Bắc Kinh quyết tâm hơn bao giờ hết trong việc thúc đẩy những lợi ích của mình tiến tới theo nhiều cách và trong nhiều diễn đàn khác nhau, nhưng ngay cả khi họ ủng hộ những tổ chức thay thế hoặc làm việc ngoài hệ thống, họ thường bắt chước và cải biên cách làm việc của các tổ chức hiện có, như họ đang làm với AIIB.

Lính TQ trên một đảo ở biển Đông, Tháng 1/2006

Phản ứng của Washington vừa là chào đón vai trò mới của TQ vừa cố quản lí nó. Ngay cả lúc họ tìm cách để đưa TQ vào hệ thống, nhiều người ở Hoa Kì biết rằng Bắc Kinh có thể quấy phá nền quản trị quốc tế và các lề lối làm việc đã được thiết lập. Kết quả là, khoảng một thập niên trước, Washington bắt đầu thay đổi cách tiếp cận của mình. Hoa Kì tích cực tìm cách để chuyển hướng năng lượng của TQ và chặn trước khả năng Bắc Kinh thách thức các tổ chức hiện có.

Năm 2005, Robert Zoellick, thứ trưởng ngoại giao Mĩ, đã đưa ra một bài phát biểu vạch ra chiến lược mới này. Zoellick đã tìm cách chuyển trọng tâm của chính sách TQ của Washington từ câu hỏi liệu Bắc Kinh ở trong hay ngoài của các tổ chức chính sang vấn đề rộng lớn hơn về hành vi và những lựa chọn của họ. Ông lưu ý rằng TQ, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bốn năm trước đó, đã gần như hoàn tất quá trình hội nhập chính mình vào trật tự thế giới đã được thiết lập. TQ đã tham gia hầu hết các tổ chức chính mà họ từng chống đối và ít ra trên giấy tờ, cũng đã gia nhập nhiều hiệp ước chính và các hiệp định về nhiều vấn đề đa dạng như sự suy giảm ozone và vũ khí hóa học.

Do đó, theo Zoellick, chính sách của Hoa Kì cần phải thay đổi mạnh bạo. Ông nói "Đã đến lúc đưa chính sách của chúng ta vượt khỏi việc mở các cửa cho TQ gia nhập vào hệ thống quốc tế. Chúng ta cần phải thúc giục TQ trở thành một bên dự phần có trách nhiệm trong hệ thống đó." Một phần của động lực đằng sau bài phát biểu của ông Zoellick là nhằm chấn chỉnh xu hướng của Bắc Kinh muốn hưởng không (free-ride) về an ninh và ổn định do Hoa Kì cung cấp ở châu Á lẫn phần còn lại của thế giới. Ví dụ tại Afghanistan, TQ thu được nhiều lợi lộc đáng kể từ các cuộc chiến tranh do Mĩ dẫn đầu chống lại al-Qaeda và Taliban, trong đó có việc loại bỏ mối đe dọa khủng bố dọc biên giới phía tây của họ và tạo ra một chính phủ ổn định hơn ở Kabul. Nhưng TQ đóng góp rất ít cho nỗ lực này so với quy mô kinh tế của mình. Và trong thập niên kể từ đó, sức mạnh và vai trò toàn cầu của TQ đã chỉ tăng thêm. Tại cuộc họp G-20 năm 2009 tại Pittsburgh, chẳng hạn, TQ tìm cách có được tỉ trong biểu quyết lớn hơn trong Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Năm 1999, TQ đã không còn đủ điều kiện để vay vốn của Hiệp hội Phát triển Quốc tế, và giữa thập niên này, TQ lại trở thành nước đóng góp cho nó. Và TQ đã tham gia, và thậm chí bắt đầu đồng tài trợ nhiều dự án cùng với hầu hết các ngân hàng phát triển chính khu vực, bao gồm cả Ngân hàng Phát triển Liên Mĩ và (Inter-American Development Bank) Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (European Bank for Reconstruction and Development). Mặc dù đã trở thành một bên dự phần trong những tổ chức này và các tổ chức khác, TQ vẫn thường hoài nghi về chúng và không hài lòng với cách làm việc của chúng

Ba khía cạnh cụ thể trong sự nổi lên của TQ đang khiến nhữngnỗ lực của Hoa Kì trong việc bảo vệ kiến trúc hiện có khó khăn hơn. Thứ nhất, TQ không tuân theo các chuẩn mực tự do của các nước vốn đứng ra thành lập các tổ chức quốc tế trên thế giới—và đã tìm cách tiêm cấy vào chúng các giá trị của họ— sau Thế chiến II. Sự phản kháng này không những xuất phát từ hệ thống chính trị thiếu tự do, Leninist của chính TQ mà còn từ hoàn cảnh lịch sử, đáng lưu ý nhất là yêu sách đối với Đài Loan, đã cho TQ cái nhìn thế giới kiểu truyền thống và không can thiệp rõ rệt. Chẳng hạn, trong những năm 1990, khi Hoa Kì sử dụng lực lượng quân sự ở Panama, Haiti, và vùng Balkan, nỗi quan tâm của TQ với các tranh chấp lãnh thổ của chính họ đã khiến họ phản đối mạnh bạo sự can thiệp của các cường quốc phương Tây. Lập trường đó chẳng bao lâu phát triển thành phản kháng việc sử dụng các tổ chức đã thiết lập để thực hiện các biện pháp can thiệp tự do khi Hoa Kì,vào năm 1999 đã can thiệp vào khu vực Balkan lần nữa nhưng lần này qua mặt Hội đồng bảo an, nơi mà TQ có thể đưa ra lá phiếu phủ quyết của mình, mà thay vì vậy đã dựa vào NATO để hợp pháp hóa sứ mệnh đó. Sự bất đồng quan điểm này giữaTQ và phương Tây đã cản trở sự hợp tác Mĩ-Trung, đặc biệt là ở Iraq và Syria.

Thứ hai, mặc dù đã tham gia vào và trở thành thành viên ngày càng tích cực của các nhóm và các hiệp ước hiện có, TQ cũng đã cố làm đa dạng hóa hệ thống bằng cách ủng hộ các đối thủ cạnh tranh với chúng: TQ đã nhận lấy một số cấu trúc song song, như nhóm BRIC gồm các nền kinh tế lớn mới nổi (Brazil, Nga, Ấn Độ, TQ và Nam Phi), nhóm này đã bắt đầu mở hội nghị thượng đỉnh hàng năm vào năm 2009 và đã thành lập một ngân hàng phát triển và một quỹ dự phòng.

AIIB minh họa cho cách tiếp cận kép này. Sự hình thành của ngân hàng này là một tuyên bố rõ ràng về sự không hài lòng của Bắc Kinh với những gì mà họ thấy như là sự thất bại của hệ thống hiện tại trong việc cải cách và nhìn nhận đủ nhanh vai trò lớn hơn của TQ, đồng thời cũng như là một cảnh báo rằng TQ có năng lực và ý chí để hoạt động bên ngoài nó. Tuy vậy,TQ vẫn không rời bỏ các tổ chức cũ này: TQ vẫn là nhà tài trợ lớn thứ ba cho các đối thủ cạnh tranh gần nhất của AIIB, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), và ngày càng tích cực trong Ngân hàng Thế giới (WB). Hơn nữa, TQ tập trung sự không hài lòng của họ vào một khu vực mà các ngân hàng này cho thấy là chưa tương xứng.

Năm 2016, ADB dự đoán rằng kinh phí cho các cơ sở hạ tầng ở châu Á sẽ đòi hỏi gần $1 nghìn tỉ một năm cho đến năm 2020, trong đó các chính phủ chỉ có thể cung cấp khoảng 60 %. Vì vậy, Bắc Kinh có thể lập luận một cách thuyết phục rằng AIIB chỉ bổ khuyết chứ không đe dọa hệ thống hiện tại.

Chiến lược này được mô tả chính xác như là cách đa dạng hóa đầu tư, theo đó Bắc Kinh mở rộng các lựa chọn về tổ chức của mình để phục vụ cho nhiều mục tiêu. TQ tìm cách rào bọc cam kết của họ với các nhóm do phương Tây đứng đầu vì sợ rằng chúng không phục vụ thích đáng lợi ích của TQ hoặc quay sang chống lại TQ, giành lấy đòn bẩy để đòi hỏi các cải cách nhanh hơn và sâu hơn đối với các cấu trúc hiện tại, "dân chủ hóa" quản trị quốc tế bằng cách thiết lập các nhóm không do các nền dân chủ công nghiệp hoá G-7 lãnh đạo, cảnh báo Washington rằng Bắc Kinh có thể và sẽ tìm kiếm các cấu trúc thay thế nếu đòi hỏi thay đổi của họ bị bỏ qua, và đưa các dự án vào thực hiện trong nhiều khu vực, chẳng hạn như tài trợ cơ sở hạ tầng, nơi mà những nỗ lực của Hoa Kì và các nhóm hiện có chưa tương xứng.

Thách thức thứ ba đối với Washington là việc Bắc Kinh kì vọng rằng vai trò tăng lên của chính họ sẽ đương nhiên làm giảm ảnh hưởng của các nến dân chủ nhỏ ở châu Âu. TQ là nhà buôn, sản xuất, và thải khí carbon lớn nhất thế giới và nắm giữ nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Vì vấn đề kinh tế và môi trường toàn cầu không thể giải quyết được nếu không có sự tham gia của TQ nên theo Bắc Kinh, cách duy nhất để làm cho các tổ chức hiện có chạy việc là làm cho chúng có tính đại diện nhiều hơn.

Tuy nhiên, đối với Washington việc tái cân bằng quyền lực theo cách này đặt ra một sự đánh đổi không thoải mái giữa tự do và hiệu quả. Một tổ chức càng bị ảnh hưởng bởi phương Tây thì càng có xu hướng thiên vị tự do, nhưng sẽ ít tính đại diện hơn— và có lẽ ít chạy việc hơn. Một ví dụ cho điều này là Cơ quan năng lượng Quốc tế, ban đầu một nhóm các nước tiêu thụ dầu lớn của thế giới mà số thành viên của nó và tỉ trọng quyền biểu quyết của các thành viên phần lớn đã bị đóng băng kể từ khi nhóm thành lập vào năm 1974. Kết quả là nhóm này không chứa TQ và Ấn Độ, tương ứng là nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ nhất và thứ ba của thế giới (mặc dù TQ có kí một thỏa thuận liên kết với nhóm, và nhóm có một chương trình hợp tác với Ấn Độ), và nhóm cho tỉ trọng vượt cỡ cho các nước Châu Âu nhỏ vốn là các nước nhập khẩu dầu lớn vào những năm 1970 nhưng hiên nay không còn như vậy. Do đó, nó biến thành một tổ chức hoạt động ít suôn sẻ về các vấn đề như sự phối hợp các kho dự trữ và các tiêu chuẩn kĩ thuật.


MỘT CHÂU Á HỘI NHẬP NHIỀU HƠN

Nhưng chính ở châu Á chứ không phải ở các tổ chức toàn cầu, Hoa Kì mới phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn nhất về việc phải đáp ứng với sự chủ động đang tăng của TQ như thế nào. Đặc biệt kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997- 98, khi Hoa Kì từ chối giải cứu Thái Lan và các điều kiện cứu trợ của IMF bị toàn khu vực xem là quá khắc nghiệt, một số nước, không chỉ riêng TQ, đã đề xướng lập ra các cấu trúc khu vực ở châu Á không có Hoa Kì. Đối với Washington, phản kháng lại các đe dọa đến ảnh hưởng của Hoa Kì sẽ thật gay go vì chúng có gốc rễ sâu hơn là tham vọng đang tăng lên của TQ. Trên thực tế, khu vực này đã có một truyền thống lâu năm về các ý tưởng liên Á (pan-Asia), đàm phán và các hiệp định, ngay cả trong số các nước vốn là đồng minh của Mĩ và ngờ vực TQ sâu đậm.

Lấy trường hợp Nhật Bản. Vì Tokyo nhìn sự gia tăng quyền lực của TQ với sự nghi ngờ sâu đậm, có người cho rằng Nhật và Hoa Kì nên đứng đầu một nỗ lực chống lại ý tưởng mới liên Á được cho là của TQ. Nhưng Nhật Bản tự họ đã đề xướng ý tưởng liên Á trong quá khứ. Chính các quan chức Nhật Bản, vào năm 1997, đã đề xuất việc thành lập quỹ tiền tệ châu Á để chống lại các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai, một đề xuất đã giúp làm nẩy sinh sáng kiến Chiang Mai hiện nay, một hệ thống hoán đổi tiền tệ song phương giữa các nước Đông Nam và Đông Bắc Á nhằm phục vụ cho mục đích tương tự.

Hiệp định liên Á chính yếu, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership/RCEP), thay thế cho các sáng kiến thương mại do Mĩ đứng đầu, cũng không phải là một ý tưởng của TQ. Kể từ khi RCEP đã trở thành đối thủ cạnh tranh chính với hiệp định thương mại ưa thích của Washington, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), các quan chức Mĩ, trong đó có Tổng thống Mĩ Barack Obama, đã miêu tả nó như là một phương tiện của TQ—một ví dụ về những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc "viết ra những quy tắc" của khu vực chống lại Hoa Kì. Nhưng câu chuyện không phải gần như đơn giản như vậy. RCEP chủ yếu là một sáng kiến của Đông Nam Á, bao gồm các nước Australia, Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam, vốn là những nước hoài nghi nhất về động cơ của Bắc Kinh ở châu Á. Trên thực tế, khoảng một nửa các quốc gia đang tham gia các cuộc đàm phán TPP cũng tham gia RCEP. Triển vọng có nhiều khả năng xảy ra nhất là nếu Mĩ không phê chuẩn TPP thì các nước này sẽ cùng nhau viết các quy tắc liên Á mới, không chấp nhận những quy tắc do Trung Quốc áp chế.

Cũng đáng chú ý là TQ thường thành công trong nỗ lực cải cách các tổ chức toàn cầu và xây dựng các nhóm liên Á vì nhu cầu của họ khớp với nhu cầu của Ấn Độ, một đối tác ngày càng thân cận của Hoa Kì. Ví dụ, Ấn Độ đã giúp hình thành AIIB và hiện giờ là cổ đông lớn thứ hai của nó. Dù có sự nghi ngờ về sức mạnh của Trung Quốc, các quan chức ở New Delhi có xu hướng đồng ý rằng các diễn đàn mới tác động như một đối trọng cần thiết cho các tổ chức toàn cầu ít mang tính đại diện. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ không bằng lòng sống vĩnh viễn trong kiến trúc phần lớn được xây dựng bởi phương Tây.

Các sáng kiến liên Á của Trung Quốc cũng có được sức kéo qua việc vay mượn và cải biên các ý tưởng vốn từ lâu đã được nhiều nước khác, trong đó có Hoa Kì, ủng hộ. Một ví dụ nổi bật là chương trình cơ sở hạ tầng Một vành đai Một con đường đầy tham vọng của TQ. Kể từ khi chủ tịch Tập Cận Bình phát động vào năm 2013, nỗ lực nhiều tỉ đô la này nhằm kết nối châu Á với nhau qua việc xây dựng hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng và đường dây điện mới đã được miêu tả như là một nỗ lực để làm cho phần còn lại của lục địa phụ thuộc vào kinh tế TQ. Nhưng ý niệm về kết nối khu vực không phải là sáng kiến của TQ. Nhiều nước, trong đó có Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, và ngay cả Hoa Kì đã và đang giúp xây dựng, cấp vốn cho các liên kết như vậy trên khắp châu Á. Ví dụ, chính Nhật Bản chứ không phải TQ, đang tài trợ cho Metro Delhi và Hành lang công nghiệp Delhi–Mumbai, một khu công nghiệp kĩ thuật cao và đường vận chuyển hàng $90 tỉ nối các thủ đô chính trị và kinh tế của Ấn Độ. Và không phải Bắc Kinh mà là ngoại trưởng Mĩ Condoleezza Rice, Ngân hàng Thế giới, và ADB đã đề xướng việc phát triển hệ thống đường bộ và đường dây điện cho miền Trung và Nam Á giữa thập niên đầu của thế kỉ này.

Đối với Washington, cái mà việc này muốn nói là họ không cần xem các sáng kiến như AIIB hoặc Một vành đai Một con đường là phá hoại những nỗ lực của Hoa Kì. Nhưng điều đó nói lên rằng các nền kinh tế châu Á đang ngày càng nhìn vào nhau hơn là vào phương Tây, cho đầu tư và hợp tác kinh tế. Kết quả có thể là vào năm 2030, châu Á sẽ giống rất nhiều với một lục địa hội nhập từng tồn tại ở đây trước khi Mĩ đến, nhiều "châu Á" hơn là "Châu Á-Thái Bình Dương”—hơn cái lục đia mà các chính khách Hoa Kì đã trở nên quen thuộc từ khi Thế chiến II kết thúc.


CÁCH PHÒNG VỆ TỐT NHẤT

Điều chỉnh cho khớp với thực tế mới này nằm trong số những thách thức chiến lược chính mà Washington phải đối mặt ở châu Á. Tuy nhiên, cho đến nay, Hoa Kì đã không thích nghi thật tốt với vai trò toàn cầu của TQ và đặc biệt là với các sáng kiến liên Á mới của họ. Washington có thể và phải làm tốt hơn. Một mặt các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kì cần phải chọn mục tiêu đấu tranh của mình cẩn thận hơn. Sẽ có nhiều cuộc thi thố ý chí trong những năm tới về trật tự khu vực và toàn cầu, và do đó Washington sẽ phải luyện rèn sự thận trọng. Trong vụ AIIB, chẳng hạn, Hoa Kì đã phải đấu với một sáng kiến lớn của TQ trong khu vực mà các cấu trúc hiện có rõ ràng là không đủ và bản thân Washington cũng không đưa ra được mô hình thay thế với Hoa Kì là trung tâm . Khi làm như vậy, Hoa Kì đã biến một đề xuất đa phương của TQ thành một cuộc đấu song phương về ý chí mà gần như chắc chắn là Hoa Kì sẽ thua: Hoa Kì không thực sự ở trên thế Bắc Kinh và hiểu sai tệ hại cảm nghĩ từ các đồng minh của mình.

Một bài học khác là Hoa Kì không nên ép các đồng minh phải thực hiện việc lựa chọn một trong hai giữa Bắc Kinh và Washington về các vấn đề không có tính sống còn đối với an ninh quốc gia của Mĩ hay an ninh quốc gia của các nước đồng minh. Ở biển Đông, nơi mà TQ đang thách thức luật biển và các tập tục quốc tế, áp lực như vậy là cần thiết. Nhưng việc TQ cấp vốn cho tuyến đường sắt thương mại hoặc đường dây điện không phải là một đe doạ.

Và cuối cùng, Hoa Kì cần phải rõ ràng về nơi mà lợi ích sống còn của mình quyết định để dốc sức lực nhiều hơn vào ván bài. Thương mại là ví dụ tốt nhất về một khu vực mà Hoa Kì phải làm như vậy. Với việc Donald Trump đắc cử, Hoa Kì có vẻ gần như chắc chắn sẽ từ bỏ TPP. Vì vậy, Washington sẽ kì vọng các nước châu Á lấp vào khoảng trống và viết các quy tắc của riêng mình. Chắc chắn, doanh nghiệp Hoa Kì sẽ vẫn quan yếu ở châu Á; các công ti Hoa Kì đã đầu tư hơn $200 tỉ chỉ riêng tại các nước Đông Nam Á. Nhưng cái đang bị đe dọa không phải là việc kinh doanh mà là các quy tắc, chuẩn mực và tiêu chuẩn. Washington sẽ mất ảnh hưởng đối với các quy định về đầu tư, tiêu chuẩn công nghệ, lao động và các cách xử sự về môi trường.

Cái mà Hoa Kì nên khuyến khích là một trật tự kinh tế dựa trên thị trường tự do và mở trong khu vực này. Và TPP tự một mình nó sẽ không đủ trong mọi tình huống. Thay vì từ bỏ thỏa thuận này, Washington cần phải bổ khuyết nó, bằng cách đàm phán các hiệp định đầu tư song phương với TQ và Ấn Độ để mở cửa nền kinh tế của họ ra cho các công ti Hoa Kì và để hậu thuẫn các nhà cải cách kinh tế trong cả hai nước này; theo đuổi quan hệ đối tác công-tư để đạt được việc doanh nghiệp Mĩ tham gia vào phát triển cơ sở hạ tầng trên khắp châu Á; đạt các thoả thuận cụ thể để mở cửa thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ và công nghệ, những lĩnh vực mà Hoa Kì vượt trội; và tìm kiếm các hiệp ước mới trong các lĩnh vực như tiêu chuẩn đánh cá và môi trường cho dự án Một vành đai Một con đường của TQ. Làm như vậy có nghĩa là giúp định ra chương trình làm việc chứ không phải chỉ đơn thuần là phản ứng với các đề xuất của TQ.

Nhưng hiện nay việc sử dụng hình thức quản trị kinh tế này của Hoa Kì dường như có khả năng suy yếu dần. Vì vậy, khi ảnh hưởng bị suy giảm, Hoa Kì phải tìm cách dựa nhiều hơn vào các đồng minh để tác động như một đối trọng với TQ ở những nơi mà Hoa Kì tự mình không thể hoặc sẽ không làm. Chẳng hạn, ở Thái Lan ảnh hưởng của Nhật Bản đã tăng khi ảnh hưởng của Washington lu mờ do việc Nhật kiên trì theo đuổi các quan hệ đối tác đầu tư và can dự về chính trị với chính quyền quân sự ở Bangkok.

Bài học cuối cùng là hệ thống quốc tế không thể hoạt động trừ khi có kết hợp những quốc gia lớn nhất và phát triển nhanh nhất vào. Nếu hệ thống không bao gồm thích đáng TQ, Ấn Độ và các nền kinh tế mới nổi khác thì các nước này sẽ quay sang nơi khác. Điều đó có nghĩa là ảnh hưởng chính thức của châu Âu, và ở một mức độ thấp hơn, của Hoa Kì trong hầu hết các tổ chức quốc tế sẽ phải co hẹp lại trong những năm tới. Vì vậy, nếu muốn giữ gìn độ nghiêng về tự do của hệ thống, Hoa Kì sẽ cần phải dựa nhiều hơn vào các phương tiện không chính thức. Điều đó sẽ kéo theo việc tạo ra các nhóm các quốc gia tạm thời làm việc về các vấn đề cụ thể bên ngoài kiến trúc chính thức của hệ thống và rút tỉa nhiều hơn từ TQ để đổi lấy việc thích ứng với tầm vóc đang lớn của TQ. Quyết định gần đây đồng ý với đòi hỏi của Bắc Kinh để đồng nhân dân tệ được bao gồm trong nhóm các đồng tiền dự trữ có quyền rút vốn đặc biệt của IMF, cho ta một ví dụ về việc điều này có thể được thực hiện như thế nào. Nếu như, thay vì đồng ý ngay, Washington và IMF chú ý vào việc tách quá trình này ra thành những bước tuần tự, mỗi bước chốt vào các cải cách cụ thể trong thị trường vốn của TQ, thì họ vẫn có thể đưa TQ vào hệ thống đồng thời cũng giúp các nhà cải cách kinh tế của chính TQ mạnh dạn hơn.

Chắc chắn TQ sẽ tiếp tục đề xuất các sáng kiến tương tự như AIIB làm bật các thế mạnh của nước này lên. Đối với các quan chức Hoa Kì, phản ứng bằng việc ngồi bó tay là vô nghĩa. Ngoài lợi thế do vị trí ở trung tâm địa lí của châu Á ban cho, TQ có thể triển khai hàng nghìn tỉ trong quỹ vốn được nhà nước hậu thuẫn, điều mà Hoa Kì không thể làm. Để bác bỏ mọi sáng kiến của TQ triệt để thì sẽ đòi hỏi Washington phải đấu cả về địa lí lẫn kinh tế. Và làm như vậy sẽ khiến Hoa Kì bỏ lỡ nhiều cơ hội làm việc với TQ—ví dụ, ở Trung Á, nơi mà lợi ích của Mĩ gắn kết chặt chẽ với TQ nhiều hơn là với Nga.

Điều mấu chốt là Washington dành quá nhiều thời gian và năng lượng phản ứng với các động thái của TQ. Thay vào đó, Hoa Kì nên chủ động và khai thác các thế mạnh của mình, chẳng hạn như công nghệ, đổi mới, và mối liên kết với nhiều thị trường vốn toàn cầu, khi nó làm việc với một mảng đa dạng của các đối tác châu Á để giúp cân bằng ảnh hưởng ngày càng tăng của TQ. Cách tốt nhất để thích ứng với các hoạt động mới của TQ là dấy lên một cuộc tấn công mạnh mẽ hơn chứ không cứ mãi chơi phòng thủ.


Evan A. Feigenbaum là Phó Chủ tịch Viện Paulson tại Đại học Chicago. Ông từng là Phó Trợ lí Ngoại trưởng về Nam Á 2007-9, Phó Trợ lí Ngoại trưởng về Trung Á 2006-7, và là thành viên của nhóm hoạch định chính sách của Bộ Ngoại Hoa Kì về Đông Á trong 2001-6.

Tuesday, December 27, 2016

Trật tự thế giới 2.0

Trật tự thế giới 2.0

(World Order 2.0)

Vấn đề về  Nghĩa vụ Chủ quyền

Richard N. Haass
FA (số tháng 1 / 2 năm 2017)

(Bản dịch đã đăng trên AnhBaSam ngày 27/12/2016)

images
Gần bốn thế kỉ, tính từ Hòa ước Westphalia, kết thúc Cuộc chiến tranh Ba mươi năm, khái niệm về chủ quyền—quyền của các quốc gia đối với việc tồn tại độc lập và nền tự chủ—đã chiếm vị trí cốt lõi trong cái mà trật tự quốc tế có tới giờ. Điều này có ý nghĩa, vì như mỗi thế kỉ kể cả thế kỉ hiện tại đã chứng kiến, một thế giới trong đó các đường biên giới bị xâm phạm bằng vũ lực là một thế giới của sự bất ổn và xung đột.

Tuy nhiên, một cách tiếp cận trật tự quốc tế chỉ dựa trên tiền đề về việc tôn trọng chủ quyền cùng với sự duy trì cân bằng quyền lực cần thiết để giữ nó an toàn không còn đủ nữa. Hệ điều hành truyền thống của thế giới—gọi nó là trật tự thế giới 1.0—đã được xây dựng xung quanh việc bảo vệ và đặc quyền của các quốc gia. Nó ngày càng không thích đáng trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Bậy giờ không còn bao nhiêu thứ vẫn còn giữ tính địa phương; dù là về con người hay bất cứ thứ gì, từ khách du lịch, kẻ khủng bố, và người tị nạn đến e-mail, bệnh tật, đô la, và khí nhà kính, đều có thể vươn tới gần như bất cứ nơi nào. Kết quả là những gì diễn ra bên trong một nước không còn có thể xem là mối quan tâm của chỉ một mình nước đó. Tình thế hiện nay đòi hỏi phải cập nhật hệ điều hành—gọi nó là trật tự thế giới 2.0—bao gồm không những các quyền của các quốc gia có chủ quyền mà còn các nghĩa vụ của các quốc gia đối với quốc gia khác nữa.

Một khái niệm về “nghĩa vụ chủ quyền” như thế, đáng chỉ ra, khác với khái niệm “chủ quyền như là trách nhiệm”, vốn nằm ở trung tâm của các chủ thuyết pháp lí  gọi là “trách nhiệm bảo vệ”, hoặc R2P (responsibility to protect). R2P đề cập đến nghĩa vụ một chính phủ phải có đối với công dân của chính mình—những cam kết được giả định là có thể bị các quốc gia khác cưỡng chế thi hành thông qua nhiều biện pháp lên đến và kể cả can thiệp quân sự, nếu chểnh mảng. Nó rõ ràng thể hiện một sự vi phạm tiềm năng chủ quyền Westphalia cổ điển, và nó có những người ủng hộ và kẻ phản đối vì chính lí do đó. Ngược lại, nghĩa vụ chủ quyền là về cái mà một quốc gia có trách nhiệm với các nước khác. Nó bắt nguồn từ nhu cầu mở rộng và làm thích ứng những nguyên tắc truyền thống của trật tự quốc tế trong một thế giới kết nối lẫn nhau.

Nghĩa vụ chủ quyền do đó vẫn giữ lại việc tôn trọng biên giới và chống lại việc biên giới bị thay đổi thông qua cưỡng ép hoặc vũ lực. Nó ủng hộ các hành động thực thi tiêu chuẩn chống xâm lược, dù vụ việc liên quan đến Iraq xâm lược Kuwait hay Nga xâm lược Crimea. Và nó vẫn giữ lại việc tôn trọng quyền được hành động nói chung của các chính phủ theo ý họ bên trong biên giới của mình, với điều kiện chịu sự ràng buộc của các quy định được chấp nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, chẳng hạn như Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công ước chống diệt chủng. Nghĩa vụ chủ quyền không chối bỏ hoặc thay thế cách tiếp cận truyền thống đối với trật tự—một cách tiếp cận vẫn còn cần nhưng không còn đủ nữa— nhiều như nó được xây dựng trên đó.


TỪ TRẠNG THÁI QUỐC GIA ĐẾN KHỦNG BỐ VÀ BOM

Một trật tự quốc tế mới sẽ đòi hỏi phải mở rộng bộ các chuẩn mực và thỏa thuận, bắt đầu với một cơ sở đồng ý chung cho trạng thái quốc gia (statehood). Không thể có một quyền không giới hạn cho mỗi một và mọi cộng đồng để đạt được quyền tự quyết chính trị. Việc đạt được một sự đồng thuận về việc hạn chế quyền này như thế nào sẽ không dễ dàng, nhưng cần thiết để tránh các hành động đơn phương gây ra xung đột. Một khởi đầu tốt sẽ là sửa đổi khái niệm về quyền tự quyết để nó được coi như là một cái gì đó không những phải được khẳng định mà còn phải được trao cho. (Thoả thuận 1978 ở Trại David giữa Ai Cập và Israel, chẳng hạn, không mở rộng các nguyên tắc về quyền tự quyết cho người Palestine mà là ủng hộ quan điểm cho rằng “các đại biểu của dân Palestine phải tham gia vào các cuộc đàm phán về việc giải quyết các vấn đề Palestine trong mọi khía cạnh của nó.“)

Toàn cầu hóa là chuyện lâu dài, và những bất cập của phương pháp truyền thống với trật tự sẽ chỉ trở nên rõ ràng hơn theo thời gian.

Với cách tiếp cận như vậy, ủng hộ cho quyền tự quyết sẽ ít tự động hơn là trong thời kỉ giải thuộc địa. Các chính phủ hiện tại sẽ đồng ý xem xét các đề xuất cho trạng thái quốc gia trong những trường hợp ở đó có một sự biện minh lịch sử, một lí lẽ thuyết phục, sự ủng hộ phổ biến, và khả năng tồn tại khi xét tới thực thể mới được đề xuất. Tác động của một động thái như vậy về việc có thể có nước từ bỏ lãnh thổ và dân số cũng sẽ cần phải được xem xét, và các chính phủ sẽ đồng ý tham vấn với nhau trước khi thực hiện các động thái ngoại giao.

Yếu tố cốt lõi của một khuôn khổ cho trật tự quốc tế dựa trên nghĩa vụ chủ quyền sẽ là những cấm đoán về việc thực hiện hoặc ủng hộ khủng bố theo cách nào đó, được định nghĩa như là việc sử dụng bạo lực vũ trang có chủ ý của các thực thể phi nhà nước chống lại dân thường và những người không là chiến binh để theo đuổi các mục tiêu chính trị. Trong những thập kỉ gần đây, thế giới đã rời xa khỏi việc dung túng bọn khủng bố nếu thấy rằng mục tiêu của họ không chính đáng. Việc quốc tế lên án khủng bố cũng như việc ủy quyền cho hành động tập thể chống lại nó  đã thành lệ. Chừng nào mà các chính phủ theo đuổi việc  tấn công chống khủng bố vào các cá nhân hoặc nhóm là khủng bố thực sự, và vạch ra các cuộc tấn công sao cho chúng phù hợp với các tiêu chuẩn pháp lí và đạo đức, bao gồm việc thực hiện các bước để bảo vệ thường dân vô tội, thì họ sẽ không bị chỉ trích đáng kể.

Gây tranh cãi nhiều hơn sẽ là việc ủng hộ tiêu chí chống lại sự phổ biến hoặc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt. Có một khuynh hướng quốc tế hiện hành (được Hiệp ước không phổ biến hạt nhân nhấn mạnh) ngăn chặn phổ biến vũ khí bằng cách hạn chế các nước tiếp cận với công nghệ và chất liệu có liên quan, và sự chống đối của các cường quốc chính với việc Iran có được khả năng hạt nhân cho thấy cách tiếp cận đó có thể tạo dễ dàng  cho tiến trình ngoại giao. Nhưng sự đồng thuận thường bị phá vỡ khi đi vào các chi tiết về những điều gì cần nhấn mạnh và những khuyến khích hoặc trừng phạt nào cần đưa ra—và các chính phủ đã cho thấy khả năng họ phát triển hoặc có được vũ khí hạt nhân chống lại sự phản đối quốc tế, nếu họ làm việc đó tới mức thành một ưu tiên.

Thậm chí tranh chấp nẩy sinh nhiều hơn về những gì phải làm một khi việc phổ biến [vũ khí hạt nhân] đã xảy ra. Một lựa chọn là cứ sống với nó, như đã xảy ra trong trường hợp Israel, Ấn Độ, Pakistan, và cho đến nay, Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, việc chấp nhận trên thực tế như vậy có thể có nguy cơ, vì nó có thể làm hành vi nguy hiểm thành có khả năng lẫn vì nó có thể tiếp tục pha loãng chuẩn mực không phổ biến hạt nhân, do đó có khả năng khuyến khích sự phát triển thêm. Một giải pháp thay thế cho việc chấp nhận là những nỗ lực ngoại giao bổ sung, được hậu thuẫn bằng cấm vận, nhằm rút lại năng lực hạt nhân của nước phát triển hạt nhân. Vấn đề là những nỗ lực như vậy thường thất bại. Vì vậy, một giải pháp thay thế khác là phải sống với sự phát triển hạt nhân cho đến khi tình báo cho thấy rằng vũ khí sắp được sử dụng hoặc chuyển giao cho một nhóm khủng bố—tại thời điểm đó khả năng xuất hiện cho một cuộc tấn công quân sự phủ đầu chống lại một mối đe dọa sắp xảy ra. Một cuộc tấn công như vậy sẽ đòi hỏi tin tình báo chính xác và tương đối không mập mờ, cùng với ý chí và các phương tiện để thực hiện nó. Có một sự ủng hộ nào đó trong luật pháp quốc tế cho một tư thế như vậy.

Còn một giải pháp khác nữa là cố đạt được sự ủng hộ quốc tế cho tính chính đáng (legitimacy) của hành động phòng ngừa để ngăn chặn phổ biến vũ khí. Các hành động chặn trước nhắm vào các mối đe dọa sắp xảy ra; những hành động phòng ngừa nhắm vào các mối đe dọa trước đó, khi chúng vẫn còn đang gom tụ lại. Hành động phòng ngừa có thể làm gián đoạn chương trình hạt nhân của một nước trước khi bất kỉ loại vũ khí nào được sản xuất hoặc tiêu huỷ chúng sau đó. Nhưng sẽ có không nhiều sự ủng hộ quốc tế cho một lập trường như vậy, vì nó sẽ bị những chính phủ thấy đó như là việc cấp giấy phép cho Hoa Kì tấn công các nước, như Bắc Triều Tiên hay Iran, phản kháng. Nó cũng không nhất thiết được mong muốn, vì bên cạnh những điều khác, một thế giới có các cuộc tấn công phòng ngừa thường xuyên sẽ hung bạo và nguy hiểm hơn.

Syrian migrants cross under a fence as they enter Hungary at the border with Serbia, near Roszke, August 27, 2015. REUTERS/Bernadett Szabo/File Photo To match story
Người di cư Syria chui qua một hàng rào để vào Hungary tại biên giới với Serbia, gần Röszke, August 2015.BERNADETT Szabo / REUTERS

Có một sự ủng hộ rất đáng kể cho việc chống phổ biến vũ khí hạt nhân nhưng không nhiều cho hành động quân sự để ngăn chặn nó hoặc giảm nó lại một khi nó đã xảy ra. Ủng hộ cho hành động chặn trước khi đối mặt với các mối đe dọa sắp xảy ra sẽ phụ thuộc vào các chi tiết của trường hợp cụ thể và sẽ tăng đến mức có thể được chứng minh rằng những hành động đó là cần thiết. Bắc Triều Tiên vốn đang phát triển khả năng đặt các đầu đạn hạt nhân vào tên lửa đạn đạo có thể bay tới Hoa Kì, hứa hẹn sẽ là một trường hợp đang nói. Đưa điều này thành một chủ đề thảo luận tại các cuộc họp song phương và đa phương là có ý nghĩa, không phải vì có khả năng nó sẽ dẫn đến một thỏa thuận chính thức mà còn vì nó sẽ tập trung sự chú ý vào các loại hoàn cảnh có thể dẫn đến việc xem xét hành động dự phòng, hoặc chặn trước—một cái gì đó tới lượt có thể giảm cơ hội cho những hoàn cảnh như vậy nổi lên.


TỪ KHÍ HẬU ĐẾN KHÔNG GIAN MẠNG VÀ XA HƠN

Biến đổi khí hậu theo nhiều cách là biểu hiện tinh túy của toàn cầu hóa. Nó phản ánh tổng số của những gì đang xảy ra; những nước tiếp xúc với  và bị ảnh hưởng bởi vấn đề này không đều nhau bất kề phần đóng góp vào nó. Biên giới tính ra vô nghĩa. Có một sự nhất trí rộng rãi, nếu không phải là phổ biến, rằng thay đổi khí hậu là có thật, phần lớn là do hoạt động của con người gây ra, và tạo thành một mối đe dọa lớn đối với tương lai của hành tinh và cư dân của nó. Nhưng sự đồng thuận bị phá vỡ khi nói đến việc xác định cái gì cần phải làm và  do ai làm.

Trên nguyên tắc, biến đổi khí hậu là một cái gì đó vốn phải nằm gọn trong khuôn khổ nghĩa vụ chủ quyền, vì những thứ mà một nước thực hiện bên trong biên giới của mình trong việc thải ra carbon có tác động cho toàn thế giới. Nói một cách khác, biến đổi khí hậu là một hệ quả tích lũy của hoạt động địa phương. Như vậy, nó khác một cách cơ bản với, chẳng hạn ô nhiễm nước hoặc ô nhiễm không khí vốn phần lớn là một hệ quả của hoạt động địa phương.

Vấn đề là việc đánh giá phần chia sẻ thoả đáng của mỗi quốc gia trong gánh nặng chống lại nó, qua việc giảm lượng thải carbon của chính mình hay giúp đỡ các nước khác giảm đi lượng thải của họ. Những nỗ lực để thiết lập mức trần toàn cầu, phân bổ phần chia sẻ của từng nước, hoặc gán một cái giá cho carbon đã bị phản kháng. Tuy nhiên, Hội nghị Paris năm 2015 cho thấy một số hiện thực cũng như tính sáng tạo qua việc tiến hành một cách tiếp cận khác nhau. Một mục tiêu tổng thể đã được thiết lập để hạn chế biến đổi khí hậu, nhưng không đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho các nước về những gì cần phải làm để đạt được mục tiêu đó. Điều đó là hoàn toàn tự nguyện và ước vọng hơn là bắt buộc. Thật vậy, người ta đãt hoả thuận rằng mỗi nước sẽ tư thiết lập cho mình những mục tiêu đầy tham vọng nhưng có thể đạt được trong việc giảm lượng carbon và sau đó cố thực hiện theo cam kết của mình.

Đó là một bước tiến về hướng nghĩa vụ chủ quyền, và chính phủ các nước giàu có nên đưa ra các hình thức khuyến khích để giúp các nước khác đạt được mục tiêu của họ, cũng như xem xét hình phạt loại này hay loại khác cho những nước không thực hiện. Cũng có nhiều việc sẽ phải làm để giúp các nước thích ứng với hậu quả của biến đổi khí hậu vốn đang diễn ra; biết rằng qua nhiều thập kỉ các nước  phát triển đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra vấn đề này, việc họ nên giúp trang trải các chi phí giảm thiểu và thích ứng của các nước khác như một phần của nghĩa vụ chủ quyền là điều hợp lẽ.

Không gian mạng là lĩnh vực hết sức mới trong hoạt động quốc tế, một lĩnh vực được  đánh dấu bằng cả hợp tác lẫn xung đột. Một số hoạt động trong không gian mạng là vô hại và ít dính dáng tới an ninh quốc gia, trong khi các hoạt động khác được kết nối mật thiết với chính sách đối ngoại, tình báo, và việc cạnh tranh quốc gia. Mục tiêu trong lĩnh vực này nên tạo ra các thỏa thuận quốc tế nhằm khuyến khích những cách dùng vô hại không gian mạng và làm nhục chí những cách dùng ma mãnh. Sau đó, các chính phủ sẽ phải duy trì và hành động nhất quán trong chế độ này như là một phần của nghĩa vụ chủ quyền.

Một chế độ như vậy có thể  liên quan đến điều gì? Lí tưởng nhất, nó sẽ duy trì một hệ thống không gian mạng tích hợp duy nhất cho toàn cầu, giới hạn những cái chính phủ có thể làm trong việcngăn chặn dòng chảy tự do của thông tin và truyền thông bên trong nó, cấm gián điệp thương mại và trộm cắp tài sản trí tuệ, và giới hạn và làm thui chột ý chí các hoạt động gây rối trong không gian mạng trong thời bình. Các ngoại lệ cần thiết là cho phép tấn công mạng để làm hỏng cả việc phát triển hạt nhân lẫn khủng bố. Cuối cùng, có thể cần phải xây dựng một phụ lục cho luật về chiến tranh trên không gian mạng quy định cụ thể những hành động nào trong phạm vi này được coi là được phép làm và những hành động nào là bị cấm. Và cũng như với  khủng bố, với không gian mạng: chính phủ sẽ có nghĩa vụ không chỉ tránh tham gia vào các hoạt động bị cấm mà còn làm mọi thứ trong quyền lực của mình để ngăn chặn các bên khác thực hiện những hoạt động đó từ lãnh thổ của họ và để ngăn chặn và trừng phạt những ai thực hiện .

Đạt được thậm chí sự đồng thuận có giới hạn trên các nguyên tắc như vậy và làm cách nào để duy trì chúng sẽ cần nỗ lực rất lớn. Nhưng vì những vấn đề này vẫn còn tương đối mới, mục tiêu hiện nay là nên bắt đầu xây dựng một bộ quy tắc ứng xử  thích hợp cho các quốc gia đi theo lĩnh vực này.

Y tế toàn cầu bày ra  những thách thức khác nhau. Trong một thế giới toàn cầu hóa, một đợt bùng phát bệnh truyền nhiễm ở một nước có thể nhanh chóng phát triển thành một mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe ở những nơi khác, như đã xảy ra trong những năm gần đây với tất cả mọi thứ từ SARS đến  Ebola đến Zika. Khái niệm về nghĩa vụ chủ quyền đã đi trước rất  xa trong lĩnh vực này, và các nước đã được giả định là phải cố phát hiện các vụ bùng phát bệnh truyền nhiễm, thông báo cho những nước khác trên thế giới, và phản ứng một cách thích hợp khi đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Nhưng tất cả những điều đó thì nói dễ hơn làm, và các chính phủ cùng Tổ chức Y tế Thế giới không phải lúc nào cũng có khả năng (và trong một số trường hợp, ý chí chính trị) để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Nhiều trợ giúp  kĩ thuật và tài chính trong khu vực này là cần thiết, và có thể việc chỉ đích danh và bêu xấu những kẻ né việc sẽ khiến họ cải thiện hon hành vị của mình.

A scientist operates a centrifuge control panel while working on developing a vaccine for the Zika virus in Connecticut, United States, June 2016.
Một nhà khoa học vận hành một bảng điều khiển máy li tâm khi làm việc về phát triển một loại vắc xin cho virus Zika ở Connecticut, Hoa Kì, Tháng 6/2016.MIKE Segar / REUTERS

Về vấn đề người tị nạn, không có cách nào thay thế cho hành động có hiệu quả tại chỗ để cho các tình huống không làm phát sinh mà tạo ra dòng người tị nạn lớn. Trên nguyên tắc, đây là một lập luận cho việc can thiệp nhân đạo dưới sự bảo trợ của R2P. Nhưng diễn dịch nguyên tắc này vào thực tế đã cho thấy là bất khả và có khả năng vẫn khó khăn dù có các chương trình nghị sự chính trị khác nhau (có rất ít, nếu quả có, tình huống là phi chính trị hoặc chỉ đơn thuần là nhân đạo) và cái giá phải trả cho sự can thiệp có hiệu quả là cao ngay cả khi các mục tiêu có chỗ trùng lắp nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi không có một sự đồng thuận, vẫn có lập luận để tăng kinh phí cho những người tị nạn, đảm bảo việc họ được đối xử nhân đạo, và thiết lập hạn ngạch công bằng cho việc họ  tái định cư, tất cả các điều đó đều có thể và nên được làm thích nghi theo nghĩa vụ chủ quyền.

Nghĩa vụ chủ quyền mang một màu sắc  khác trong lĩnh vực kinh tế,  vì các chính phủ đã có nhiều sáng kiến tự quan tâm để hành động một cách có trách nhiệm qua việc duy trì một đồng tiền có thể đứng vững được, đảm bảo rằng các tổ chức tài chính giữ dự trữ thoả đáng, thực thi kế toán trung thực, đẩy lùi tham nhũng, tôn trọng hợp đồng, mở rộng thương mại, và chăm bón một môi trường thu hút được đầu tư. Việc tuân theo những cách làm tốt nhất về kinh tế, nói cách khác, là một cái gì đó mà các quốc gia nên làm cho chính mình hơn cả. Nhưng có một số khía cạnh hoạt động kinh tế  liên quan khác nằm trong khuôn khổ nghĩa vụ chủ quyền.

Chẳng hạn các thoả ước thương mại, theo định nghĩa, là các hiệp định  về nghĩa vụ chủ quyền tương hỗ nhau liên quan đến thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Khi một bên cho rằng nghĩa vụ đó không được đáp ứng thì nhờ đến trọng tài; thực sự, điều đột phá chính của Tổ chức Thương mại Thế giới là cung cấp một cơ chế thường trực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các cách thực hành giao thương và đi đến các dàn xếp. Tuy nhiên, nhiều điều ít rõ ràng hơn ở một số khu vực khác của hoạt động kinh tế, chẳng hạn như việc cung cấp các khoản trợ cấp hoặc việc thao túng tiền tệ của chính phủ để được lợi thế xuất khẩu cho nước mình và gây bất lợi cho nhập khẩu. Thách thức này sẽ phải nêu rõ ràng nghĩa vụ chủ quyền thích hợp trong các lĩnh vực này trong các hiệp ước thương mại trong tương lai và tạo ra các  cơ chế để buộc các chính phủ phải có trách nhiệm.


TỪ LÍ THUYẾT ĐẾN THỰC HÀNH

Sẽ khó để đi đến ngay cả một thỏa thuận thô về những nghĩa vụ chủ quyền cụ thể nào mà các quốc gia phải có và các nghĩa vụ đó nên được thực thi như thế nào. Việc biến khái niệm được chấp nhận thành một trụ cột trong trật tự quốc tế sẽ mất nhiều năm hoặc thậm chí hàng chục năm tham vấn và đàm phán, và thậm chí sau đó, việc nó được tuân theo và tác động của nó vẫn sẽ không đều. Nhưng thay vì là lí do từ bỏ dự án, đó là lí do để bắt đầu về nó một cách nghiêm túc và sớm, vì thời đại toàn cầu sẽ tiếp tục phát triển, và các thỏa thuận hiện có sẽ ngày càng không thích hợp để đối phó với các thách thức.

Như một bước đầu tiên, Washington nên nghiền ngẫm những nghĩa vụ nào mà họ sẽ chấp nhận cho chính mình và những nghĩa vụ nào họ sẽ đòi hỏi ở nước khác, cố gắng để vạch ra một bộ quy tắc tổng quát về hành vi thích hợp mà Washington có thể tuân theo cùng với các nước khác. Một bộ quy tắc như thế  có khả năng cung cấp một cái gì đó như một la bàn cho chính sách đối ngoại của Mĩ vì nó lèo lái cái hứa hẹn sẽ là một kỉ nguyên địa chính trị phức tạp đặc trưng bởi một số lượng ngày càng tăng các thách thức cho sự ổn định ở cấp khu vực cũng như cấp toàn cầu.

Những nhà quyết định chính sách Mĩ cũng phải đối mặt với thực tế rằng bất kỉ trật tự thế giới nào cũng sẽ hạn chế các lựa chọn của Mĩ cũng như  các lựa chọn của những nước khác. Cho dù đúng là Hoa Kì có một vai trò đặc biệt trong thế giới và trách nhiệm duy nhất mà đôi khi đòi hỏi có các hành động táo bạo đơn phương, bất cứ khi nào Hoa Kì đòi hỏi nước khác nhiều hơn đòi hỏi chính mình thì nó có vẻ đạo đức giả và đánh mất thẩm quyền và sự tin cậy. Ví dụ, ở biển Đông, Washington từng chỉ trích Bắc Kinh không tuân theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển—ngay cả khi Quốc hội Mĩ không chịu phê chuẩn chính điều ước đó. (Trường hợp tương tự khác, chẳng hạn như việc Mĩ từ chối gia nhập Toà án Hình sự Quốc tế, có thể được tìm cách xoay xở qua việc chạy vòng quanh, chẳng hạn như cho phép lập ra các toà án để xử lí các sự kiện lịch sử cụ thể.) Tương tự như vậy, khả năng Hoa Kì thuyết phục khác nước giúp người tị nạn nhiều hơn bị cản trở bởi những giới hạn rõ ràng về những gì nước Mĩ tự mình sẵn sàng để làm trong lĩnh vực này. Hoa Kì cũng phải chăm lo để được minh bạch: nó chỉ thực hiện ít ỏi cho mục đích của R2P khi vụ can thiệp vào Libya năm 2012 nhanh chóng biến thành một vụ can thiệp thay đổi chế độ; các can thiệp nhân đạo phải hẹp về phạm vi.

Trong một số lĩnh vực như y tế công cộng hoặc biến đổi khí hậu, tấm gương do hành vi tốt của chính Washington lập ra, cùng với viện trợ tăng thêm, có thể đủ khiến các nước khác đáp ứng nghĩa vụ của họ. Trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như khủng bố và phổ biến vũ khí, ý muốn sử dụng vũ lực quân sự đôi lúc  có thể được đòi hỏi —nhưng nếu vũ lực cho thấy trở nên cần thiết, bất kỉ hoạt động quân sự nào sẽ phải chịu sự săm soi cả lí giải lẫn việc thực thi.

Với vai trò của đồng USD là đồng tiền dự trữ trên thực tế (de facto) của thế giới, Hoa Kì cần phải chấp nhận nghĩa vụ đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Điều này có nghĩa là phải tính đến quan điểm của các nước khác khi quyết định về lãi suất hoặc mua sắm tài sản (còn được gọi là “nới lỏng định lượng”). Tham vấn thường xuyên, nghiêm ngặt giữa Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve) và các đối tác ngân hàng trung ương trên thế giới là rất cần thiết. Và các tranh chấp thương mại nên được đưa tới Tổ chức Thương mại thế giới hơn là hành động đơn phương.

Cổ vũ Trật tự Thế giới 2.0 sẽ đòi hỏi tham vấn rất nhiều. Trong một số lĩnh vực như y tế toàn cầu, việc đối thoại đã tiến xa, và thách thức chính là việc xây dựng năng lực quốc gia ở các nước còn thiếu nó. Trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như không gian mạng, thế giới vẫn còn xa mới đạt thỏa thuận về những nghĩa vụ nào cần phải được đòi hỏi . Và trong các lĩnh vực khác nữa, chẳng hạn như phát triển vũ khí, chuẩn mực đã được thoả thuận, nhưng việc thực thi thì rất nhiều tranh cãi. Như một quy luật, Hoa Kì có thể và nên đưa ra những ý tưởng, nhưng không phải  ở vị thế về trí tuệ hay về chính trị để trình bày một kế hoạch chi tiết cho các nước khác kỉ vào. Ngược lại, những  nước khác phải tham gia trong việc thêm da thịt cho khái niệm cũng nhiều như việc thực thi nó.

Tiến bộ tích cực về chương trình này sẽ cần đạt đến một cách tự nguyện, từ chính các nước hơn là kết quả của một lệnh nào đó từ trên xuống của cơ quan hay diễn viên được coi là có thẩm quyền. Nhìn thẳng vào sự không ăn khớp giữa bản chất và quy mô của các vấn đề đương đại và khả năng của các thoả thuận hiện có để giải quyết chúng, các chính phủ sẽ phải quyết định xem họ có sẵn sàng hi sinh một số quyền tự chủ để đổi lấy hành động tập thể được cải thiện. Loại suy nghĩ  này đã phổ biến trong lĩnh vực thương mại (mặc dù hiện nay đang bị phe dân tuý cáu giận ở nhiều nước công kích), và nó đang bắt đầu trở thành hiện thực trong đấu trường khí hậu và không gian mạng, nhưng triển vọng của nó là pha tạp nhiều hơn trong lĩnh vực chính trị-quân sự.

Nhưng sức mạnh của thảo luận và thuyết phục trong việc thúc đẩy thay đổi trong thời gian dài thường bị đánh giá thấp. Nhiều vấn đề chưa đủ chín muồi để đem ra đàm phán chính thức thành công, và trong thời gian chuyển tiếp, tham vấn có thể làm được nhiều thứ để tạo ra sự hiểu biết và khoan dung về một vài hành động nhất định, làm rõ những hành vi nào được xem là phải chăng hoặc chấp nhận được, và làm rõ cái giá phải trả và các hậu quả có thể có của việc vượt quá các giới hạn. Vai trò của Ngoại trưởng và các quan chức Mĩ cao cấp khác sẽ cần phải thay đổi trong tương lai gần, nhấn mạnh nhiều hơn vào tham vấn trên các diễn biến của trật tự quốc tế và ít hơn vào các cuộc đàm phán giải quyết các vấn đề tường minh.

Hầu hết các tham vấn ban đầu nhất thiết sẽ phải dính dáng tới các cường quốc lớn khác, bao gồm Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, và Vương quốc Anh. Các cuộc đàm phán sẽ cần phải diễn ra song phương và ở các diễn đàn không chính thức khác; sẽ là quá sớm để nghĩ tới G-20 hoặc Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc như một nơi dùng đàm phán. Tiến bộ sẽ khó nắm bắt trong điều kiện có  những bất đồng rõ ràng về những ưu tiên; cụm từ “cộng đồng quốc tế” thường được viện dẫn trong khi thực tế có rất ít bằng chứng thấy nó tồn tại. Và các cuộc đàm phán này sẽ được diễn ra trong bối cảnh quan hệ của các cường quốc lớn đang xấu đi, một phần bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa toàn trị đang hồi sinh tại Nga và Trung Quốc và chủ nghĩa dân túy ở các nơi khác, kể cả ở Hoa Kì.

Tuy nhiên, không có lựa chọn tốt nào khác. Toàn cầu hóa đến và ở lại đây, và những bất cập của cách tiếp cận truyền thống với trật tự, chỉ dựa trên một mình chủ quyền, sẽ chỉ trở nên rõ ràng hơn theo thời gian. Di chuyển về hướng một loại trật tự mới lồng ghép nghĩa vụ chủ quyền vào là cách tốt nhất để đối phó với vấn đề, nhưng sẽ đòi hỏi thời gian, đàm phán, và nỗ lực. Do đó, trật tự thế giới ít trở thành một đề xuất kiểu ‘được ăn cả ngã về không’ hơn thành một vấn đề về mức độ, ít trở thành một thỏa thuận chính thức hơn thành một quá trình, tiến trước ở một số lĩnh vực xa hơn ở những lĩnh vực khác. Tuy nhiên, điều chắc chắn nó là cốt yếu cho một thế kỉ trong đó toàn cầu hóa sẽ trở thành hiện thực, dù có vui vẻ chào đón hay không. Xây dựng một trật tự thế giới dựa vào nghĩa vụ chủ quyền chắc chắn là điều tham vọng, nhưng đó là một tham vọng sinh ra từ hiện thực, chứ không phải từ lí tưởng.

Saturday, December 10, 2016

Thời kì đen tối cho nền Dân chủ châu Âu?

Thời kì đen tối cho nền Dân chủ châu Âu?

(A Dark Age for European Democracy?)

Trung tâm Chính trị này sẽ hành xử ra sao vào năm 2017

R. Daniel Kelemen
FA (7/12/2016)

Ngày 17 tháng 11, Thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Mỹ Barack Obama công bố một bài báo trong tạp chí WirtschaftsWoche (Tuần Kinh tế) Đức, phác thảo những cam kết chung của hai nước với các giá trị về tự do cá nhân, dân chủ, và nền pháp trị (rules of law); phòng vệ tập thể thông qua liên minh NATO; và hợp tác quốc tế về các vấn đề từ chính sách tị nạn đến giảm thiểu biến đổi khí hậu. Luận đề này của họ đóng vai trò như là một nhắc nhở về các giá trị vốn là trung tâm của liên minh dân chủ tự do xuyên Đại Tây Dương trong nhiều thập niên.

Trong những tháng gần đây, phe dân tộc và dân tuý đã thách thức những giá trị đó ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Hồi tháng 6, việc Vương quốc Anh bỏ phiếu rời khỏi Liên minh châu Âu đã cho phe dân tuý thắng lợi lớn đầu tiên trong năm. Sau đó, vào tháng rồi, việc Donald J. Trump được bầu làm  tổng thống Mỹ đã đặt một ứng cử viên thể hiện thái độ khinh thị các giá trị dân chủ như là tự do báo chí, độc lập về tư pháp, và nền pháp trị vào chức vụ quyền lực nhất thế giới. Tại châu Âu, các chính trị gia cực hữu và độc đoán từ Budapest đến Moscow tung hô chiến thắng của Trump; lãnh đạo đang cầm quyền các nước phản ứng với sự sửng sốt. Nền dân chủ tự do phương Tây, có vẻ thăng cao vào cuối thời Chiến tranh Lạnh, bây giờ dường như bị đe dọa từ mọi phía. Thời gian này là những ngày đặc biệt tối tăm cho nền dân chủ châu Âu.

Không ai có thể biết chính xác Trump sẽ cai trị như thế nào hoặc chính sách đối ngoại mà ông sẽ theo đuổi là gì. Nhưng một số các tác động mà chức vụ tổng thống của ông sẽ có lên châu Âu và liên minh xuyên Đại Tây Dương thì đã rõ ràng. Chiến thắng của Trump sẽ không đẩy các chính trị gia cánh hữu lên cầm quyền, nhưng nó có thể củng cố sự tự tin của họ khi họ thách thức các nhàchính trị gia đang cầm quyền. Đối với những kẻ dân tuý đang nắm quyền, như Thủ tướng Hungary Viktor Orban và Jaroslaw Kaczynski, đứng đầu đảng quản trị Luật pháp và Công lí Ba Lan (Poland's governing Law and Justice -PiS) cũng là nhà lãnh đạo trên thực tế của nước này, chính quyền Trump có thể là một người bạn thân cận của họ.

Các phát biểu trong chiến dịch tranh cử của tổng thống mới đắc cử gợi ra rằng ông sẽ đòi hỏi các nước châu Âu chi cho quốc phòng của họ nhiều hơn. Đó là một lập trường hợp lí, nhưng Trump có thể làm hỏng các lợi ích của bất kì việc tăng chi tiêu quốc phòng nào của châu Âu qua việc phá hoại uy tín của liên minh NATO. Về phần EU, với vai trò là một tổ chức siêu quốc gia nhằm thúc đẩy thỏa thuận thương mại đa phương, di chuyển tự do, quy định về môi trường và luật pháp quốc tế, nó bao hàm phần lớn những gì mà Trump đã lớn tiếng chống đối. Không có gì ngạc nhiên ngay sau cuộc trưng cầu ý dân tháng 6 của Vương quốc Anh, Trump đã lên Twitter để tuyên bố mình là "Mr Brexit", và từ đó đã có mối quan hệ bạn bè rõ ràng với Nigel Farage, cựu lãnh đạo quốc Đảng Độc lập Vương quốc Anh (United Kingdom Independence).

Laszlo Balogh / REUTERS Hungary Thủ tướng Viktor Orban phát biểu ở Budapest, tháng 10 năm 2016.

PHE TRUNG DUNG NẮM GIỮ?

Các phép thử mới nhất cho giới chính trị cầm quyền của châu Âu xảy ra ở Áo và Italy vào tháng 4. Trong cuộc bầu cử tổng thống của Áo, Alexander Van der Bellen, một cựu lãnh đạo ủng hộ châu Âu của đảng Greens (Xanh), đánh bại Norbert Hofer, ứng cử viên Euroskeptic (hoài nghi/bài bác EU) của đảng Tự do Áo cánh hữu, chống di dân. Nhưng sự nhẹ nhõm mà chiến thắng của Van der Bellen của khiêu gợi các nhà lãnh đạo dòng chính châu Âu không kéo dài: sau ngày hôm đó, các cử tri Ý đã giáng một đòn mạnh vào giới đang cầm quyền nước mình bằng cách bác bỏ một cuộc trưng cầu về cải cách hiến pháp mà thủ tướng trung tả Matteo Renzi thực tế đã đưa vào thành một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với sự lãnh đạo của ông. Renzi từ chức, dìm Italia vào một thời kì bất ổn chính trị tại một thời điểm khi nó phải đối mặt với áp lực chồng chất lên hệ thống ngân hàng và nợ quốc gia, cuộc khủng hoảng di dân, và nhóm dân túy của chính nước này tăng mạnh, Phong trào Năm Sao.

Năm tới, các cuộc bầu cử quốc gia ở Pháp, Đức và Hà Lan sẽ kiểm nghiệm xem phe ôn hòa có thể nắm giữ được vị thế chống lại các lực lượng cực hữu như họ đã làm ở Áo hay không. Đầu tiên, vào tháng 3, cử tri Hà Lan sẽ đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử quốc hội. Geert Wilders cuồng nhiệt chống đạo Hồi và Đảng Tự do cực hữu của ông có thể sẽ so kè ngang ngửa với Thủ tướng đương nhiệm Mark Rutte và Đảng Nhân dân trung hữu của ông. Sau đó, vào tháng 4 và tháng 5, Pháp sẽ bầu ra một tổng thống mới sau hai vòng bỏ phiếu. Marine Le Pen, lãnh đạo của đảng Mặt trận Quốc gia (National Front ) cực hữu, có lẽ sẽ nổi lên như một trong hai ứng cử viên hàng đầu ở vòng đầu, có nhiều khả năng sẽ đưa bà lên đấu với Đảng Cộng hòa trung hữu của Francois Fillon ở vòng cuối. Cuối cùng, vào tháng 9, Đức sẽ tổ chức bầu cử quốc hội. Angela Merkel đang tìm kiếm một nhiệm kì thủ tướng thứ tư và phải đối mặt với khả năng lần đầu tiên trong lịch sử sau chiến tranh của nước này, một đảng cực hữu – the Alternative for Germany (Giải pháp thay thế cho Đức)– sẽ vào quốc hội liên bang.

Chiến thắng của Trump đã làm hi vọng của các lực lượng dân túy ở Pháp, Đức và Hà Lan mạnh lên, nhưng trong từng trường hợp, phe trung dung có thể sẽ nắm giữ vị thế. Trong hệ thống đảng phái phân mảnh của Hà Lan, sẽ cần phải liên minh mới nắm được quyền, và vì có nhiều khả năng những đảng dòng chính sẽ tránh xa Wilders, Rutte sẽ có khả năng sẽ trở lại làm người đứng đầu một chính phủ đa đảng mới. Ở Pháp, có một cơ hội thực sự để Le Pen chiến thắng, nhưng rất có thể là phe trung dung sẽ chặn bà lại bằng cách thống nhất xung quanh đối thủ của mình ở vòng bỏ phiếu thứ hai. Tại Đức, bà Merkel đang được mức ủng hộ cao. Vì cuộc khủng hoảng di cư hiện giờ đang trong vòng kiểm soát và vì bà đã có một số nhượng bộ đối với những kẻ chỉ trích từ cánh phải, Thủ tướng có thể sẽ giành được một nhiệm kì nữa. Các cuộc bầu cử năm 2017 có thể tạo ra một sự dịch chuyển trong phe trung dung châu Âu sang phía hữu, nhưng ở các nước EU hùng mạnh nhất, các chính phủ hết lòng đi với dân chủ tự do dường như có khả năng vẫn sẽ nắm quyền.

Mặc dù Trump không thể đẩy các nhà chính trị dân túy vào vị trí cầm quyền, ông có thể hậu thuẫn những người đã nắm quyền. Trump đã mời nhà độc tài Orban—người mà chính quyền của Tổng thống Hoa Kì Barack Obama cố tránh xa trong 5 năm qua, đến thăm ông tại Washington. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 01 tháng 12 với truyền thông Hungary, Jeffrey D. Gordon, cố vấn chiến dịch tranh cử  của Trump, tuyên bố rằng phe ông xem Orban là "một nhà lãnh đạo vĩ đại, một trong những nhà lãnh đạo tốt nhất trên thế giới." Các nhà lãnh đạo của chính phủ PiS của Ba Lan, hiện đang làm việc tiếm quyền vi hiến Tòa án Hiến pháp của nước này và phải đối mặt với mối đe dọa bị EU trừng phạt, có thể mong đợi cũng được Trump ôm lấy. Trong chiến dịch này, Trump nhiều lần ca ngợi các nhà lãnh đạo độc đoán và tỏ rõ rằng ông không coi việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài như là một vai trò của Hoa Kì. Việc Trump cởi mở với Orban gợi ra rằng ông sẽ thận thiện với các nhà lãnh đạo châu Âu có xu hướng chuyên quyền thay vì gây áp lực buộc họ phải tôn trọng các chuẩn mực dân chủ, như chính quyền Obama đã làm.

Về NATO, trong cuộc điện đàm ngày 29 tháng 11 với Thủ tướng Anh Theresa May, Trump nhấn mạnh tầm quan trọng của NATO cho cả Vương quốc Anh và Hoa Kì. Dù khó có khả năng Trump dỡ bỏ liên minh này, song ông đã gây thiệt hại lâu dài cho nó. Điều 5 của NATO về bảo đảm bảo vệ lẫn nhau có ý tác động như một cách răn đe, đảm bảo kẻ thù tiềm năng rằng việc tấn công một thành viên NATO sẽ kích hoạt một phản ứng của toàn khối. Nhưng Trump đã làm suy yếu nghiêm trọng đảm bảo này qua việc gợi ý rằng Hoa Kì sẽ chỉ bảo vệ quốc gia NATO nào cam đoan sẽ chi ít nhất 2% tổng sản phẩm trong nước cho quốc phòng. Và với việc đưa tín hiệu rằng ông muốn tìm kiếm các mối quan hệ ấm áp hơn với Tổng thống Nga Vladimir Putin, ông đã tiếp tục làm suy yếu niềm tin các đồng minh NATO rằng Hoa Kì sẽ đến giúp họ trong trường hợp bị Nga tấn công.

Supporters of the Alternative for Germany (AFD) celebrate on during a state election in Stuttgart, Germany, March 2016.
Những người ủng hộ đảng Giải pháp thay thế cho Đức (AFD) ăn mừng trong một cuộc bầu cử bang ở Stuttgart, Đức, March 2016. MICHAEL DALDER / REUTERS

PHÉP THỬ SỰ THỐNG NHẤT

Tháng 3, Liên minh châu Âu sẽ tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 60 Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu, tiền thân của EU. Kể từ khi EU thành lập, các tổng thống Mỹ thuộc cả hai đảng đều ủng hộ việc hội nhập của châu Âu. Obama đã nhiều lần nhấn mạnh rằng sự thống nhất châu Âu là một lợi ích chiến lược của Hoa Kì và, như ông nêu nó ra trong chuyến thăm Hi Lạp vào tháng 11 rằng việc hội nhập của châu Âu là "một trong những thành tựu chính trị và kinh tế vĩ đại của lịch sử loài người." Các nhà lãnh đạo EU đừng trông mong có một sự khích lệ như thế ở Trump.

Ngược lại, các nhà lãnh đạo châu Âu cần phải chuẩn bị để xem Trump cố chia rẽ liên minh của họ và làm họ đối đầu lẫn nhau. EU thường cổ vũ các giá trị và chính sách-tự do như hiệp ước môi trường, nhân quyền, và thương mại đa phương –là những thứ Trump phản đối. Một châu Âu mạnh, đoàn kết hợp tác phát huy các giá trị tự do như thế trên toàn cầu sẽ xung đột với các chương trình chính sách của Trump. Nói chung, hội nhập của châu Âu thuộc loại "toàn cầu hóa" mà Trump và các kẻ dân tuý khác chống đối gay gắt. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Trump cổ cũ cho Brexit, tìm đến Orban và các nhà chính trị Euroskeptic khác, và kêu gọi có quan hệ ấm áp hơn với Nga ngay cả khi Putin đe dọa an ninh châu Âu và tìm cách chia rẽ EU. Các nhà lãnh đạo châu Âu cần chuẩn bị đón nhận nhiều điều như vậy từ chính phủ sắp lên này.

Thời đại Trump sẽ bày ra một phép thử sâu sắc sự đoàn kết cho liên minh đang bê bết của châu Âu. Khi châu Âu đối mặt với các cuộc đàm phán về Brexit, cuộc khủng hoảng khu vực đồng euro tại Ý có khả năng dấy lại, cuộc khủng hoảng người tị nạn kéo dài, sự gây hấn của Nga trên sườn phía đông của nó, và sự trỗi dậy của chế độ chuyên chế ở một số quốc gia thành viên EU, nó cũng sẽ phải đối phó với một Tổng thống Mỹ có thể làm nhiều thứ hơn nữa gây cản trở hơn là khuyến khích sự hợp tác châu Âu. Merkel chắc chắn có thể đóng một vai trò lãnh đạo quan trọng trong bối cảnh mới này. Nhưng bà đã đúng khi mới đây nhấn mạnh rằng "không một cá nhân đơn lẻ, kể cả có kinh nghiệm nhất, có thể sửa chữa những thứ quanh thế giới."

Chiến thắng của Van der Bellen ở Áo và sự ủng hộ của công chúng đối với EU tăng lên kể từ cuộc bỏ phiếu Brexit đã cho một số hi vọng rằng trật tự dân chủ tự do của châu Âu có thể sống sót qua cuộc khủng hoảng mà nó đang phải đối mặt hiện nay. Nhưng nếu các nhà lãnh đạo châu Âu muốn liên minh của họ sống sót qua thời kì đen tối này đối với nền dân chủ, họ phải đưa ra cho công dân thấy một tầm nhìn tích cực cho tương lai của dự án tập thể của họ và tăng gấp đôi quyết tâm của họ với nó. Trên hết, họ phải tìm cách vực dậy nền kinh tế đang chao đảo của châu Âu, rời xa nỗi ám ảnh với thắt lưng buộc bụng để tập trung vào việc phục hồi tăng trưởng. Họ phải tìm cách nắm vững và giải quyết một cách hiệu quả hơn cuộc khủng hoảng di dân, mở rộng các sáng kiến gần đây để bảo đảm an toàn biên giới bên ngoài của châu Âu trong khi trợ giúp nhiều hơn cho những nước phải chịu gánh nặng người tị nạn lớn nhất. Họ cần tăng cường hợp tác quốc phòng để cho các công dân thấy các cơ quan châu Âu có thể giúp bảo vệ họ chống lại các mối đe dọa chung như thế nào. Và các nhà lãnh đạo EU phải dũng cảm đối đầu phe dân tuý Euroskeptic ngay giữa họ, bảo vệ các giá trị dân chủ mà liên minh được xây dựng trên đó.