Wednesday, August 3, 2016

TRANH CHẤP BIỂN ÐÔNG: QUAN ÐIỂM CỦA LUẬT GIA LUẬT QUỐC TẾ

TRANH CHẤP BIỂN ÐÔNG: QUAN ÐIỂM CỦA LUẬT GIA LUẬT QUỐC TẾ

THE SOUTH CHINA SEA DISPUTE: AN INTERNATIONAL LAWYER’S VIEW

Robert C Beckman
Giám đốc Trung tâm Luật quốc tế (CIL)
Đại học Quốc gia Singapore (18/02/2011)


Dịch: Phan Văn Song
Hiệu Đính: Hoàng Anh Tuấn Kiệt




CƠ SỞ TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG


Biển Đông gồm có bốn nhóm đảo, hai trong số đó đang trong vòng tranh chấp là quần đảo Hoàng Sa và quần đảoTrường Sa.


Quần đảo Hoàng Sa bao được tạo thành bởi hai nhóm đảo, nhóm Crescent (Trăng Khuyết) và nhóm Amphitrite (An Vĩnh). Tổng cộng chúng gồm hơn 30 đảo nhỏ, bãi cát hoặc rạn san hô, với diện tích khoảng 15000 km² biển. Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía bắc của Biển Đông, gần như cách đều với bờ biển Việt Nam và Trung Quốc (đảo Hải Nam). Năm 1974, Trung Quốc (TQ) dùng quân đội cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay quân đội Nam Việt Nam, và kể từ đó TQ độc quyền chiếm giữ quần đảo này, nhưng Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền đối với chúng.


Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, các rạn san hô và núi ngầm dưới biển nằm rải rác trên một diện tích gần 410 000 km² ở trung tâm Biển Đông, phía bắc đảo Borneo, phía đông Việt Nam, và phía tây của Nam Philippines. Tổng diện tích đất của tất cả các hòn đảo ít hơn 5 dặm vuông. Quần đảo Trường Sa được Trung Quốc, Đài Loan, và Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ, trong khi đó một số đảo và các thể địa lí khác được Malaysia và Philippines tuyên bố chủ quyền. Brunei đã lập một vùng đánh bắt cá bao phủ lên một rạn san hô ở phía Nam, nhưng họ không thực hiện bất kì tuyên bố chủ quyền chính thức nào.


Đối với hàng hải quốc tế, quần đảo Trường Sa không quan trọng quá mức. Chúng nguy hiểm cho việc vận chuyển trên biển, và không có tuyến đường vận chuyển quốc tế chính đi ngang qua. Tuy nhiên, các đảo này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các tuyến đường vận chuyển quốc tế, và chúng thường được mô tả là có tầm quan trọng chiến lược. Nhật Bản đã chiếm đóng tất cả các đảo này trong thời gian họ bành trướng ở châu Á vào những năm 1930, và biến nơi này, căn cứ hải quân tàu ngầm trên Itu Aba (Ba Bình), hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, làm bàn đạp cho cuộc xâm lược Philippines .


Quần đảo này vẫn không được coi là rất quan trọng  cho tới mãi những năm 1970, khi Hội nghị lần thứ ba của LHQ về Luật Biển nhất trí cho phép các nước yêu sách vùng đặc quyền kinh tế (EEZ ) 200 hải lí từ các đảo. Tiềm năng về một EEZ 200 hải lí xung quanh các đảo đã tạo ra một mối quan tâm mới ở các đảo này bởi các trữ lượng dầu khí tiềm năng cũng như các nguồn tài nguyên thủy sản.


Từ năm 1947, Đài Loan đã chiếm đóng Itu Abu (Ba Bình), hòn đảo lớn nhất [của Trường Sa], ngoại trừ giai đoạn 1950-1956 họ rút lui do cuộc nội chiến ở TQ. Họ đã gửi lực lượng đồn trú trên đảo từ năm 1963. Vào đầu những năm 1970, các bên tranh chấp khác đã bắt đầu chiếm đóng các đảo và các thể địa lí địa lí khác. Philippines bắt đầu chiếm một số đảo trong thập niên 1970, và tuyên bố EEZ 200 hải lí vào năm 1978. Việt Nam chiếm 6 đảo năm 1975, và mở rộng chiếm cứ trong những năm 1980. Malaysia tuyên bố EEZ vào năm 1980 và chiếm rạn san hô Swallow (Hoa Lau) vào năm 1983. Sau đó họ chiếm thêm các đảo san hô khác. TQ là nước cuối cùng trong cuộc đua chiếm các thể địa lí. Sau một cuộc chạm trán quân sự với Việt Nam năm 1988, vào năm sau TQ  đã cho xây dựng một căn cứ trên rạn san hô Fiery Cross (đá Chữ Thập).


Sau Tuyên bố ASEAN về Biển Đông năm 1992, cuộc chạy đua trên các thể địa lí trống vẫn tiếp tục. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào năm 1995 sau khi TQ chiếm rạn san hô Mischief (Vành Khăn) do Philippines tuyên bố chủ quyền và chỉ cách bờ biển Palawan 100 dặm. Việc chiếm đóng rạn san hô Mischief gây ra căng thẳng nghiêm trọng giữa ASEAN và TQ, và nó dẫn đến các cuộc thảo luận về một bộ quy tắc ứng xử theo Tuyên bố ASEAN-TQ về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC).


Theo báo cáo năm 1997, số lượng các thể địa lí do các bên tranh chấp chiếm đóng trong năm 1996 như sau: Việt Nam 21-24, Philippines 8, TQ 8-9, Malaysia 3-6 và Đài Loan 1. Chưa rõ các số liệu này vẫn chính xác hay có thay đổi khoảng từ năm 1997 đến 2002 hay không. Vào tháng 11 năm 2009, một nghiên cứu do Jamestown Foundation công bố rằng Việt Nam chiếm 21 thể địa lí, Philippines 9, TQ 7, Malaysia 5 và Đài Loan 1. Theo báo cáo thì không có chiếm cứ mới nào sau khi DOC 2002 được thông qua. Tuy nhiên, theo các nhà quan sát rằng các bên đã tiếp tục phát triển cơ sở vật chất trên các thể địa lí mà họ chiếm cứ.



LUẬT QUỐC TẾ CÓ THỂ ÁP DỤNG CHO VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP


Sự phù hợp của luật quốc tế


Theo quan điểm của luật gia quốc tế, điều quan trọng là hiểu các nguyên tắc của luật quốc tế về chủ quyền lãnh thổ và luật biển áp dụng đối với tranh chấp như thế nào. Các quy tắc và nguyên tắc của luật quốc tế không có tính quyết định trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhưng chúng thường sẽ ảnh hưởng đến thái độ ứng xử của các bên và hướng cuộc tranh luận vào giới hạn cho phép. Ngoài ra, các quy tắc của luật quốc tế còn có một tác động đáng kể lên cảm nhận của cộng đồng quốc tế về tính hợp pháp của vị thế của các nước có tuyên bố chủ quyền về các vấn đề này.


Có hai lĩnh vực luật quốc tế liên quan tới việc tranh chấp. Thứ nhất, các quy định của luật tập quán quốc tế về việc thụ đắc và mất đi chủ quyền đối với lãnh thổ là áp dụng được. Thứ hai, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 quy định các loại khu vực biển mà các nước có thể yêu sách cho lãnh thổ mà họ có chủ quyền, cũng như các quyền và nghĩa vụ của các nước trong loại khu vực biển khác nhau.


Luật pháp quốc tế về thụ đắc và mất đi chủ quyền lãnh thổ


Chủ quyền lãnh thổ là quyền thực thi các chức năng của một quốc gia trong một vùng lãnh thổ của mình, độc lập đối với các quốc gia khác. Chủ quyền lãnh thổ có thể được thực thi đối với lãnh thổ đất liền lục địa và đối với các đảo. Sở dĩ những tranh chấp lớn và khó giải quyết ở Biển Đông là bởi sự nghi vấn nước nào có tuyên bố chủ quyền đúng hơn đối với các đảo trong quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.


Thụ đắc lãnh thổ qua việc thể hiện chủ quyền (chiếm cứ hoặc thời hiệu)


Theo tập quán truyền thống của luật quốc tế, hai trong số các phương thức phổ biến nhất về thụ đắc chủ quyền đối với các đảo xa là qua chiếm cứthời hiệu.


Chiếm cứ (occupation) áp dụng cho lãnh thổ terra nullius (lãnh thổ vô chủ hoặc lãnh thổ bị bỏ rơi [tất nhiên] khiến nó trở lại trạng thái vô chủ ban đầu), đó là, lãnh thổ không thuộc chủ quyền của bất kì nước nào và có thể thụ đắc bởi bất kì nước nào. Chiếm cứ đòi hỏi cơ sở vững chắc của hai yếu tố: (1) ý định hay ý chí hành động như là chủ quyền, và (2) việc thể hiện chủ quyền liên tục và hòa bình. Các đòi hỏi về việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo nhỏ, ở nơi xa không có người ở là thấp hơn rất nhiều so với đòi hỏi cho lãnh thổ đất liền.


Thời hiệu (prescription) áp dụng cho lãnh thổ bị một nước khác tuyên bố chủ quyền. Nó được mô tả như là việc thụ đắc lãnh thổ thông qua việc thực thi liên tục và không xáo trộn về chủ quyền trong thời gian đó để đoạt lấy chủ quyền của nước khác qua việc đồng ý ngầm hay mặc nhận của nước này.


Trong thực tế, sự phân biệt thường không rõ ràng, đặc biệt là đối với các đảo nhỏ xa bờ. Trong các trường hợp mới đây như trường hợp Pedra Branca, Tòa án không xem xét liệu các đòi hỏi lịch sử của việc chiếm cứ hoặc thời hiệu có được thoả mãn hay không. Thay vào đó, Tòa án xem xét các hành vi của các nước tranh chấp, làm chứng cớ cho niềm tin của họ rằng họ có chủ quyền trên vùng lãnh thổ đó, và phản ứng của các nước cạnh tranh đối với các biểu hiện chủ quyền như vậy.


Mức độ thực thi và thể hiện chủ quyền đòi hỏi phụ thuộc vào tính chất của lãnh thổ. Các đòi hỏi đối với các đảo xa xôi, khó tiếp cận và không ở được ít nghiêm ngặt hơn. Một nước phải đưa bằng chứng rằng họ đã hành động như thể họ có quyền chủ quyền đối với đảo đó.


Bằng chứng về việc thực thi thẩm quyền của một nước sẽ bao gồm các giấy phép hoặc các lệnh cho việc xây dựng một ngọn hải đăng hoặc các cấu trúc khác trên đảo, các luật lệ lập pháp và hành chính liên quan đến hòn đảo, việc cấp giấy chuyển nhượng cho phép khai thác, đánh bắt cá, các hiệp ước quốc tế với các nước khác công nhận chủ quyền, thực thi thẩm quyền xét xử hình sự về các hành vi trên đảo, điều tra tai nạn trong các vùng nước gần đảo, xuất bản bản đồ chính thức ghi rõ quyền sở hữu đối với đảo, kiểm soát việc nhập cư hoặc việc lui tới đảo này, các cột mốc trên đảo...


Mặc nhận (asquiescence) và Phản kháng (protest)


Một yếu tố quan trọng trong việc tiếp cận bằng chứng chủ quyền của một nước là phản ứng của các nước khác, đặc biệt là phản ứng của một nước cũng có tuyên bố chủ quyền đối với lãnh thổ này. Nếu có một nước thứ hai tuyên bố chủ quyền đối với đảo này và họ chống đối, phản đối các thể hiện chủ quyền của nước đầu tiên thì điều này hiển nhiên làm suy yếu các yêu sách của nước đầu tiên. Ngoài ra, nếu có một nước thứ hai tuyên bố chủ quyền nhưng lại không có bất kì phản đối nào với các hành vi khẳng định chủ quyền của nước đầu tiên mà họ được biết thì nước thứ hai có thể được xem như đã mặc nhận chủ quyền của nước đầu tiên.


Vấn đề mặc nhận là một yếu tố quan trọng trong trường hợp Pedra Branca. Tòa án đã rất coi trọng sự kiện rằng Singapore đã thực hiện nhiều hành động đối với Pedra Branca, các hành động này là bằng chứng rằng Singapore tin rằng họ có chủ quyền đối với đảo đó, và Malaysia đã không phản đối hay phản kháng những hành động này. Do đó, Tòa án đã tuyên bố rằng Malaysia đã mặc nhận chủ quyền của Singapore.


Các nước trong tranh chấp Biển Đông ý thức rất rõ ràng rằng họ nên chống lại hoặc phản đối các hành vi chủ quyền của một nước khác đối với một đảo tranh chấp nếu họ muốn bảo vệ yêu sách của chính họ, và để không bị coi là đã mặc nhận chủ quyền của nước khác. Vì vậy, các nước có tranh chấp ngay lập tức phản đối khi một quan chức Chính phủ thăm một hòn đảo đang tranh chấp hay khi một nước cạnh tranh có bất cứ hành động nào đối với đảo này, điều này có thể được hiểu như một thực thi quyền chủ quyền.


Ngày tới hạn (critical date)


Ngày tới hạn là ngày mà tranh chấp về chủ quyền giữa hai nước phát sinh. Nếu vấn đề chủ quyền đưa ra một tòa hoặc tòa án, tòa hoặc tòa án sẽ chỉ xem xét các hành động của hai nước trước ngày tới hạn. Toà sẽ không xem xét bằng chứng của việc thực thi thẩm quyền sau ngày tới hạn. Ví dụ, trong trường hợp Pedra Branca, Tòa đã tuyên bố ngày tới hạn là 14 tháng 2 năm 1980, ngày trên công hàm ngoại giao của Singapore phản đối bản đồ năm 1979 đã vẽ đảo này trong vùng lãnh hải của Malaysia. Bất cứ bằng chứng nào về bản đồ, điều tra, tuần tra, vv, sau ngày 14 tháng 2 năm 1980 không được toà án xem xét. Nói cách khác, một khi tranh chấp nẩy sinh, một nước không thể thực hiện thêm các hành vi khác nữa để cố gắng hỗ trợ trường hợp của mình.


Các nước có yêu sách các đảo ở Biển Đông dường như giả định rằng vấn đề chủ quyền sẽ không được quyết định bởi một tòa hoặc tòa án, mà thông qua đàm phán. Họ hiển nhiên tin rằng vị thế mặc cả của họ trong các cuộc đàm phán như thế sẽ được củng cố và yêu sách chủ quyền của mình cũng được vững chắc hơn nếu họ có thể chứng minh rằng họ đã chiếm cứ các đảo và thực hiện các hành động như xây hải đăng, cảng, trạm nghiên cứu, căn cứ hải quân, sân bay, cơ sở du lịch, vv. Vì vậy, họ đang bỏ qua các quy định của luật tập quán quốc tế và nguyên tắc quan trọng về ngày tới hạn.


Sự tiếp giáp địa lí


Các yêu sách của Philippines, Malaysia và Brunei không hoàn toàn rõ ràng, nhưng ở một mức độ nào đó chúng dường như được dựa trên nguyên tắc tiếp giáp địa lí. Các nước này dường như lập luận rằng các đảo nhỏ và các thể địa lí khác gần với lãnh thổ của họ, bên trong phạm vi EEZ hay thềm lục địa của họ là phải thuộc về họ như một lẽ công bằng, đặc biệt là nếu các thể địa lí như vậy chưa bao giờ thực sự bị chiếm đóng hoặc quản lí hiệu quả bởi một nước khác.


Theo luật tập quán quốc tế, tiếp giáp không phải là một cơ sở độc lập cho việc thụ đắc lãnh thổ. Việc thể hiện thẩm quyền hiệu quả, hòa bình và liên tục mới cần thiết để yêu sách thẩm quyền đối với các đảo terra nullius. Nó cũng đòi hỏi đối với các đảo mà các nước khác đã tuyên bố chủ quyền.


Vấn đề đối với các đảo trong Biển Đông là liệu một nước tiếp giáp với đảo có thể tuyên bố chủ quyền đối với đảo này thông qua chiếm cứ và kiểm soát có hiệu quả ngay cả khi các nước khác đã tuyên bố chủ quyền hay không. Một vấn đề là làm thế nào TQ và Việt Nam có thể chứng minh sự thể hiện chủ quyền liên tục đối với đảo xa xôi mà họ chưa bao giờ chiếm đóng. Malaysia và Philippines dường như giả định rằng nếu họ thực sự chiếm và xây dựng các cơ sở trên các đảo này, họ sẽ có thể đoạt lấy chủ quyền mà các nước khác đã tuyên bố trước đó. Lập luận này bị suy yếu bởi thực tế rằng TQ, Việt Nam và Đài Loan đã liên tục phản đối các hành động của Malaysia và Philippines.


Chinh phục, chuyển nhượng và kế thừa


Chinh phục bằng vũ lực là một phương thức mà một nước có thể thụ đắc lãnh thổ theo quy định của luật tập quán quốc tế truyền thống. Tuy nhiên, kể từ khi Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua vào năm 1945, rằng việc thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực không được thừa nhận hợp pháp. Vì vậy, TQ không thể lập luận rằng họ có được chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng cách chinh phục qua việc dùng vũ lực hất chân Việt Nam ra khỏi các đảo vào năm 1974.


Chuyển nhượng là một phương thức mà theo đó chủ quyền lãnh thổ có thể được chuyển giao từ nước này sang nước khác. Chuyển nhượng là một sự chuyển giao chính thức chủ quyền, chúng thường được thực hiện thông qua một hiệp ước chính thức. Ví dụ, Anh thụ đắc chủ quyền đối với Singapore thông qua một hiệp ước chuyển nhượng với Quốc vương Johor (hoặc Temenggong). Trong tranh chấp Biển Đông, không có hiệp ước chuyển nhượng nào.


Kế thừa không phải là một phương thức thụ đắc lãnh thổ truyền thống, nhưng nó có liên quan trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam lập luận rằng họ đã kế thừa quyền sở hữu (title) do Pháp nắm giữ đối với Trường Sa và Hoàng Sa với tư cách là nước kế tục của Đông Dương thuộc Pháp hay Nam Kì (Cochinchine). Việt Nam cũng thêm lập luận rằng, sau khi thống nhất, họ đã kế thừa những tuyên bố của Nam Việt Nam, và TQ cũng đưa lập luận ở mức độ nào đó rằng họ đã kế thừa những tuyên bố do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thực hiện thay mặt cho Trung Hoa khi họ hành xử với tư cách Chính phủ Trung Hoa trước khi cuộc nội chiến kết thúc. Khi kế thừa áp dụng, Nhà nước kế thừa chỉ thụ hưởng quyền sở hữu (title) mà nước trước đây đã sở hữu.



Giải quyết các tranh chấp chủ quyền thông qua tòa hoặc tòa án quốc tế


Theo luật tập quán quốc tế, tranh chấp pháp lí giữa hai nước không thể đệ trình lên Tòa Công lí Quốc tế (ICJ) hoặc toà trọng tài quốc tế nếu không có sự công nhận tường minh của các bên tranh chấp. Nếu như vụ tranh chấp đưa ra phân xử trước ICJ hoặc trọng tài trước Toà trọng tài quốc tế, thì tòa hoặc tòa án sẽ quyết định nước nào có tuyên bố chủ quyền tốt hơn theo quy định của luật quốc tế, và quyết định của toà là ràng buộc đối với cả hai bên. Ví dụ, trong cả hai trường hợp Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore lẫn trường hợp Sipadan Ligitan giữa Indonesia và Malaysia, hai nước có liên quan rõ ràng đồng ý tường minh giải quyết các tranh chấp chủ quyền bằng cách đưa ra ICJ.


Các nước cũng có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp không ràng buộc bởi bên thứ ba, chẳng hạn như điều đình, hòa giải để cố giải quyết các tranh chấp chủ quyền, nhưng họ không bị đòi hỏi phải làm như vậy. Theo Hiến chương LHQ, quy tắc ràng buộc duy nhất là các nước có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp của họ bằng biện pháp hòa bình.


Có một sự nhất trí chung là không chắc các bên tranh chấp sẽ đồng ý giải quyết các tranh chấp chủ quyền Biển Đông bằng cách đưa ra tòa hoặc toà án quốc tế. Điều này hiện hữu do tính phức tạp của các tranh chấp lịch sử, số lượng các bên liên quan, sự yếu lí trong tuyên bố của một số nước và đối trọng kinh tế và tầm quan trọng chiến lược của các hòn đảo. Do đó, nếu các tranh chấp được giải quyết, có khả năng sẽ thông qua đàm phán hoặc một số hình thức giải quyết tranh chấp không có sự ràng buộc của bên thứ ba.


Ảnh hưởng liên tục của luật quốc tế về chủ quyền lãnh thổ


Mặc dù các bên tranh chấp nhất trí rằng các tranh khó có khả năng để đi đến giải quyết tranh chấp một cách chính thức, nhưng các quy định của luật quốc tế về chủ quyền lãnh thổ vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến cách ứng xử của các bên. Họ đã tiếp tục những nỗ lực để củng cố yêu sách của mình đối với các thể địa lí mà họ chiếm thông qua việc thực hiện các hành động chứng minh chủ quyền của họ, chẳng hạn như tiến hành các cuộc tuần tra hải quân và xây dựng các trạm nghiên cứu khoa học, sân bay, căn cứ hải quân và các cơ sở du lịch. Họ cũng đã cho phát hành các tài liệu lịch sử, tổ chức các cuộc viếng thăm cho du khách và nhà báo, và ban hành luật quốc gia sát nhập các thể địa lí này vào các chính quyền khu vực gần đó cho các mục đích hành chính.


Bằng cách tiếp tục thực hiện các hành động củng cố và tăng cường các yêu sách chủ quyền của mình đối với các đảo, các bên có lẽ tin rằng, như một vấn đề thực tiễn, vị thế của họ trong bất kì cuộc đàm phán nào cũng sẽ được tăng lên. Họ cũng tiếp tục phản đối các hành động của bất kì bên nào khác không phù hợp với yêu sách của chính họ. Động thái này để đảm bảo rằng họ không bao giờ có thể bị cáo buộc là mặc nhận tuyên bố chủ quyền của một nước khác. Trong trường hợp này, các phản kháng hoặc phản đối được thực hiện theo lời khuyên của các luật sư để nhằm bảo vệ tuyên bố chủ quyền của họ. Các phản đối, phản kháng như vậy không nên bị hiểu như là các hành động leo thang tranh chấp hoặc là các hành động phản ánh một tư thế cứng rắn hơn.



SỰ PHÙ HỢP CỦA CÔNG ƯỚC LHQ NĂM 1982 VỀ LUẬT BIỂN (UNCLOS)


TQ, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei đều là thành viên UNCLOS. Đài Loan không thể phê chuẩn UNCLOS vì không được LHQ công nhận như là một nước, nhưng có khả năng là Đài Loan chấp nhận bị ràng buộc với hầu hết các quy định của UNCLOS theo quy định của luật tập quán quốc tế. Do đó, UNCLOS lập nên khuôn khổ pháp lí giữa các nước tranh chấp.


Trong UNCLOS có những quy định rõ ràng (và đôi khi cũng có các quy định không rõ ràng) đối với nhiều vấn đề liên quan đến các yêu sách về biển ở Biển Đông. Nếu cách hành xử của các bên tranh chấp không phù hợp với các quy định trong UNCLOS thì tính hợp pháp của vị thế của họ sẽ bị chất vấn. Cuối cùng, một số tranh chấp giữa các bên tranh chấp liên quan đến việc áp dụng và giải thích các quy định của UNCLOS có thể bị buộc phải theo cách giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc theo Phần XV của UNCLOS.


UNCLOS không có quy định nào về chủ quyền. UNCLOS giả định rằng việc nước nào có chủ quyền đối với một khối đất liền hay một đảo xa bờ đã được xác định. Từ đó nó quy định ra những loại khu vực biển mà các nước có thể tuyên bố chủ quyền, cũng như các quyền hạn, quyền tự do, thẩm quyền và nghĩa vụ của các nước trong những loại khu vực biển đó.


Lãnh hải


Chủ quyền lãnh thổ của một nước mở rộng ra lãnh thổ đất liền và vùng trời, cũng như lãnh hải 12 hải lí tiếp giáp với bờ biển, bao gồm cả vùng trời trên lãnh hải, đáy biển và tầng đất dưới lãnh hải. Các nước có quyền yêu sách một lãnh hải 12 hải lí từ lãnh thổ mà họ có chủ quyền, kể cả các đảo ngoài khơi.


Chủ quyền của một nước trong vùng lãnh hải phải được thực thi theo các quy tắc của luật quốc tế, kể cả UNCLOS. Các trường hợp ngoại lệ chính đối với chủ quyền của một nước ven biển trong lãnh hải là quyền của lưu thông vô hại của tàu thuyền và quyền quá cảnh của tàu và máy bay trong những bộ phận lãnh hải vốn là các eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế theo quy định trong UNCLOS .


Vùng đặc quyền kinh tế


Các nước có quyền yêu sách một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) từ đường cơ sở của lãnh thổ mà từ đó lãnh hải được tính vươn ra ngoài tới 200m, kể cả các hải đảo. Vùng đặc quyền kinh tế là một chế độ của tự nó (sui generis) nó không thuộc chủ quyền của nước ven biển hoặc một phần của các vùng biển công (high seas). Đây là một khu vực đặc biệt mà các nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trong EEZ, tất cả các nước khác đều có quyền thực hiện các quyền tự do của vùng biển công như tự do đi lại trên biển, trên không và đặt các loại cáp và đường ống dẫn ngầm, cũng như quyền "sử dụng biển hợp pháp khác liên quan đến các quyền tự do này."


Từ khi có sự đồng thuận vào giữa những năm 1970 rằng các nước có thể yêu sách một EEZ 200 hải lí từ các đảo, nguồn tài nguyên đánh bắt cá và tài nguyên khoáng thạch tiềm năng đã khiến các đảo nhỏ xa xôi bị quên lãng nhiều năm trở thành nguồn của cải to lớn đầy tiềm năng.


Thềm lục địa


Các nước cũng có quyền chủ quyền để thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và tầng đất dưới biển trên thềm lục địa của họ. Thềm lục địa của một nước ven biển bao gồm đáy biển và tầng đất dưới biển của các khu vực dưới nước mở rộng ra khỏi lãnh hải qua việc kéo dài tự nhiên lãnh thổ đất liền ra tới mép ngoài của rìa lục địa, hoặc từ đường cơ sở mà từ đó bề rộng của lãnh hải được đo tới một khoảng cách 200 hải lí ở những nơi mà cạnh bên ngoài của rìa lục địa không mở rộng tới khoảng cách đó.


Cũng như trong EEZ, các nước có quyền chủ quyền để thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và tầng đất dưới đáy và thềm lục địa của họ. Nếu thềm lục địa của một nước mở rộng với một khoảng cách nhỏ hơn 200 hải lí, có một sự chồng chéo đáng kể giữa chế độ EEZ và chế độ thềm lục địa, vì cả hai đều cho quyền chủ quyền cho các nước thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Tuy nhiên, chế độ thềm lục địa là rất quan trọng cho các nước có thềm lục địa mở rộng vượt quá 200 hải lí.


Điều 76 của UNCLOS cho phép thực hiện tuyên bố thềm lục địa vượt quá 200 hải lí ra đến tối đa là 350 hải lí hoặc 100 hải lí tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét (đường nối các điểm có độ sâu 2.500 mét với nhau). Tuyên bố thềm lục địa mở rộng phải được thực hiện bằng cách nộp thông tin kĩ thuật cho Ủy ban Thềm lục địa được thành lập bởi UNCLOS. Thời hạn chót nộp hồ sơ là 10 năm kể từ ngày UNCLOS có hiệu lực. Tại cuộc họp lần thứ 11 của Hội nghị các bên, các nước thành viên UNCLOS quyết định rằng 10 năm bắt đầu vào ngày 13 Tháng 5 năm 1999. Hiệu quả của quyết định này là để mở rộng thời hạn đến ngày 13 tháng 5 năm 2009 cho hầu hết các nước thành viên. Tháng 6 năm 2008, lại có quyết định rằng các nước có thể đáp ứng thời hạn bằng cách nộp "Thông tin sơ bộ" thay vì nộp hồ sơ đầy đủ.


Tác động của một đệ trình về các tranh chấp trên biển đang diễn ra được xử lí đặc biệt theo các quy tắc về thủ tục của Ủy ban trên. Quy tắc 5(a) quy định rằng trong các trường hợp đang có tranh chấp trên đất liền hoặc trên biển, Ủy ban không xem xét và thẩm định đệ trình do bất cứ nước nào có liên quan tới tranh chấp đó đưa ra. Tuy nhiên, Ủy ban có thể xem xét một hoặc nhiều đệ trình trong các khu vực đang có tranh chấp với sự đồng ý trước được các bên trong tranh chấp đó đưa ra. (nhấn mạnh thêm).


Đường cơ sở


Tất cả các loại khu vực biển đều được đo từ đường cơ sở. Nguyên tắc thông thường cho đường cơ sở là đường mức triều thấp dọc theo bờ biển. Điều 7 cho phép việc sử dụng các đường cơ sở thẳng (1) ở những nơi bờ biển bị cắt xẻ mạnh, hoặc (2) nếu có một dải đảo dọc theo bờ biển ngay trong khu vực lân cận của nó. Trong cả hai trường hợp, việc vẽ đường cơ sở thẳng không được lệch khỏi hướng chung của bờ biển ở bất kì mức độ đáng kể nào.


Trong trường hợp Qatar và Bahrain, Tòa Công lí Quốc tế nói rằng Điều 7 nên được diễn giải một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, hầu hết các nước ở Đông và Đông Nam Á đã giải thích Điều 7 rất tự do, và một số đường cơ sở thẳng được TQ, Đài Loan, Việt Nam và Malaysia sử dụng dọc theo bờ biển của họ không phù hợp với cách hiểu nghiêm túc Điều 7. Philippines đã thông qua một luật đường cơ sở mới năm 2009 thiết lập các đường cơ sở quần đảo. Báo cáo ban đầu là các đường cơ sở này là phù hợp với UNCLOS.


UNCLOS cho phép một "nước quần đảo" vẽ các đường cơ sở quần đảo thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo và các rạn san hô khô ráo ngoài cùng của quần đảo. Một nước quần đảo là “một nước được tạo thành toàn bộ bởi một hoặc nhiều quần đảo, và có thể bao gồm các hòn đảo khác như Indonesia và Philippines”. Các nước lục địa có các quần đảo ngoài khơi, theo UNCLOS, không được phép vẽ các đường cơ sở quần đảo thẳng. Vì vậy, đường cơ sở quần đảo thẳng không thể sử dụng ở các đảo trong Biển Đông (chẳng hạn như quần đảo Hoàng Sa) mặc dù đôi khi chúng được mô tả là "quần đảo".


Đảo, đảo đá, bãi triều thấp và các đảo nhân tạo


"Đảo" được định nghĩa tại Điều 121 của UNCLOS như là “một vùng đất hình thành tự nhiên bên trên mặt nước khi triều cao.” Theo quy tắc thông thường, các đảo được quyền hưởng các loại khu vực biển tương tự như lãnh thổ đất liền, bao gồm lãnh hải, vùng tiếp giáp, EEZ và thềm lục địa.


Điều 121 (3) tạo ra một ngoại lệ cho quy tắc này cho các thể địa lí rất nhỏ. Nó quy định rằng "các đảo đá không thể duy trì sự cư trú của con người hoặc cuộc sống kinh tế riêng thì sẽ không có EEZ hay thềm lục địa." Vì vậy, điều cực kì quan trọng là liệu một thể địa lí đặc biệt chỉ được hưởng một lãnh hải 12 hải lí hay không bởi vì nó là một “đảo đá" theo quy định tại Điều 121 (3).


Các ước tính cho biết có ít hơn 50 trong số hơn 150 thể địa lí trong Biển Đông là đảo theo quy định tại Điều 121, vì chúng là những vùng đất hình thành tự nhiên nằm trên mặt nước khi triều cao. Ước tính cũng cho thấy là đại đa số trong khoảng 50 đảo này ở Biển Đông là quá nhỏ, đến mức chúng phải được phân loại như là các mỏm đá vì chúng không thể duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế riêng.


Hầu hết các thể địa lí địa lí trong Biển Đông không phải là đảo bởi vì chúng nằm dưới mặt nước khi triều cao. Một số "bãi triều thấp", có nghĩa là chúng nằm dưới mặt nước khi triều cao, nhưng trên mặt nước khi triều thấp. Các nước không có quyền yêu sách bất kì loại khu vực biển nào từ các bãi triều thấp, kể cả vùng lãnh hải 12 hải lí. Thật ra, hiện vẫn còn chưa rõ liệu một nước có thể tuyên bố chủ quyền đối với một bãi triều thấp theo luật quốc tế hay không. Trong trường hợp Pedra Branca, ICJ đã nói rằng luật quốc tế không rõ ràng về việc liệu một nước có thể có chủ quyền đối với một bãi triều thấp như Ledge Nam hay không. Tuy nhiên, IJC từ chối giải quyết vấn đề trong trường hợp đó.


Những thể địa lí khác trong Biển Đông là các rạn san hô, bãi cát ngầm và bãi cát , chúng đều không nằm trên mặt nước ngay cả khi triều thấp. Các thể địa lí như vậy không là đối tượng cho yêu sách chủ quyền lãnh thổ, và không thể yêu sách bất cứ loại khu vực biển nào cho các thể địa lí này.


Nếu một Nhà nước đã sử dụng cải tạo đất hoặc đã xây dựng công trình trên một thể địa lí để nó trở nên ở trên mặt nước khi triều cao, thể địa lí này không trở thành một đảo. Theo UNCLOS, một đảo phải là một khu vực đất "hình thành tự nhiên" trên mặt nước khi triều cao. Các thể địa lí như vậy sẽ được coi là "các đảo nhân tạo" và sẽ bị khống chế bởi các quy tắc của UNCLOS về các đảo nhân tạo, thiết bị lắp đặt và cấu trúc. Các nước không có quyền yêu sách bất kì loại khu vực biển nào xung quanh các thể địa lí như vậy, ngoại trừ việc họ có quyền tuyên bố một vùng an toàn 500 mét xung quanh chúng.


Vì vậy, nếu Điều 121 được áp dụng nghiêm chỉnh thì chỉ có một số rất nhỏ của các đảo ở Biển Đông sẽ được hưởng EEZ và thềm lục địa cho riêng mình. Phần lớn trong số những đảo nhỏ sẽ là các mỏm đá theo Điều 121 (3) và sẽ chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lí và vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lí. Đa số các thể địa lí không phải là đảo bởi vì chúng không nằm trên mặt nước khi triều cao. Các thể địa lí như vậy sẽ không được hưởng bất kì loại khu vực biển nào cho riêng mình (thậm chí không được lãnh hải 12 hải lí).


Phân định ranh giới biển


Điều 74 và 83 điều chỉnh việc phân định ranh giới EEZ và thềm lục địa giữa các nước đối diện hoặc kề nhau. Các từ ngữ của cả hai điều luật này gần giống nhau và quy định rằng việc phân giới sẽ được thực hiện theo thỏa thuận trên cơ sở luật quốc tế để đạt được một giải pháp công bằng.


Các toà đã tham chiếu phương pháp tại Điều 74 và Điều 83 (và trong luật tập quán quốc tế) được gọi là phương pháp "các trường hợp liên quan tới các nguyên tắc công bằng". Trong nhiều trường hợp gần đây, cách tiếp cận hai giai đoạn rõ rệt đã dần hiện ra, theo đó dựng sơ bộ một đường cách đều nghiêm ngặt có hiệu lực đầy đủ cho tất cả các thể địa lí, trước khi các sự kiện cụ thể của vụ này được xem xét trên quan điểm đánh giá liệu có cần một điều chỉnh cho đường đó để đạt đến kết quả công bằng hay không.


Có nhiều yêu sách biển trong Biển Đông chồng lấn nhau do yêu sách EEZ hoặc thềm lục địa của các nước liền kề chồng lấn lên nhau. Những tuyên bố ranh giới chồng chéo khá phức tạp bởi thực tế rằng hai hoặc nhiều bên tranh chấp vẫn cho rằng các đảo trong Biển Đông thuộc chủ quyền của họ. Ít nhất một vài đảo tranh chấp có thể được có EEZ của riêng mình. Vì vậy, sẽ có một sự chồng chéo giữa tuyên bố EEZ tính từ đường cơ sở dọc theo bờ biển lục địa và tuyên bố EEZ tính từ đường cơ sở của các đảo ngoài khơi. Tuy nhiên, do chủ quyền trên các đảo xa bờ đang có tranh chấp nên những tuyên bố EEZ chồng lấn không thể giải quyết được. Như với trường hợp của Pedra Branca, trước hết các nước phải xác định nước nào có chủ quyền đối với đảo này trước khi họ có thể bắt đầu các cuộc đàm phán về việc làm thế nào để phân định ranh giới biển.


Một quy định quan trọng về phân giới trong Biển Đông là quy định tại Điều 74 và 83 liên quan đến phân định EEZ và thềm lục địa, trong đó nêu rằng các nước nên tham gia vào "các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tế" trong khi chờ thỏa thuận cuối cùng về ranh giới biển. Quy định này đã được các học giả trích dẫn để cố gắng thuyết phục các bên tranh chấp rằng họ nên hợp tác về các vấn đề quan tâm chung (quản lí đánh bắt cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm và cứu nạn, vv) trong khi chờ bất kì giải pháp nào cho các vấn đề phân định ranh giới. Đoạn có liên quan nêu như sau:


3. Trong thời gian chờ thỏa thuận theo quy định tại đoạn 1, các nước có liên quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, thực hiện mọi nỗ lực để tham gia vào các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tế và, trong giai đoạn chuyển tiếp này, không gây nguy hại hoặc cản trở việc đạt tới thỏa thuận cuối cùng. Các dàn xếp như vậy không được làm ảnh hưởng đến việc phân định cuối cùng.


UNCLOS quy định rằng nếu thỏa thuận không thể đạt được thông qua thương lượng thì tranh chấp về phân định có thể chuyển tới hệ thống giải quyết tranh chấp ràng buộc bắt buộc trong Phần XV. Ví dụ, tháng 10 năm 2009, Bangladesh viện dẫn Phần XV với cả Ấn Độ và Myanmar để giải quyết các yêu sách biển chồng chéo trong Vịnh Bengal.


Tuy nhiên, Điều 298 của UNCLOS quy định rằng các nước có quyền không tham gia "hệ thống giải quyết tranh chấp ràng buộc bắt buộc đối với các tranh chấp trong việc giải thích hoặc áp dụng các quy định về phân định biên giới biển. Đáng chú ý, TQ đã chọn cách không tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp ràng buộc bắt buộc trong UNCLOS đối với các tranh chấp liên quan tới việc giải thích hoặc áp dụng các quy định về phân định biên giới biển.


Phân định ranh giới biển liên quan đến đảo và đảo đá


Mặc dù không có tuyên bố có thẩm quyền về việc giải thích đoạn 3 Điều 121 như thế nào, các tòa và toà án quốc tế đã từng phải đối mặt với nhiều câu hỏi về các đảo nên được xử lí như thế nào trong bối cảnh phân định ranh giới biển trong một số trường hợp.


Toà và các toà án thường xử lí các hòn đảo nhỏ bằng cách coi chúng theo một trong ba cách. Thứ nhất, các tòa và toà án quốc tế đã có xu hướng giải quyết tác động không cân xứng với tiềm năng của các đảo bằng cách làm cho chúng giảm hiệu lực trên đường phân giới cuối cùng. Điều này thường đạt được bằng cách xây dựng các đường cách đều nghiêm ngặt và sau đó điều chỉnh đường này để cho các thể địa lí liên quan chỉ được hiệu lực một phần. Thứ hai, một số tòa và tòa án đã cho hòn đảo nhỏ ảnh hưởng rất nhỏ chỉ một phần hoặc “bao bọc” toàn bộ chúng. Thứ ba, trong một số trường hợp, tòa và tòa án đã giảm hiệu lực toàn bộ các đảo nhỏ bằng cách không cho phép sử dụng chúng như các điểm cơ sở trong việc thiết lập đường biên giới.


Quyền Lịch sử


Không có quy định nào trong UNCLOS đề cập đến quyền lịch sử. "Vịnh lịch sử" (historic bay) và "sở hữu/danh nghĩa lịch sử" (historic title) được nói tới ở ba điều khoản. Thứ nhất, Điều 10 (6) nêu rằng các quy định tại Điều 10 về đường cơ sở cho vịnh không áp dụng cho cái gọi là vịnh "lịch sử". Thứ hai, Điều 15 quy định lãnh hải của các nước đối diện hoặc liền kề sẽ được phân định theo đường cách đều, nhưng quy định này không áp dụng khi cần thiết vì lí do quyền sở hữu lịch sử hoặc các trường hợp đặc biệt khác sẽ phân định lãnh hải của hai nước theo một cách khác. Thứ ba, Điều 298 cho phép các nước không tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp ràng buộc bắt buộc đối với các tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử hay sở hữu lịch sử.


Nói cách khác các thuật ngữ "vịnh lịch sử" hay "sở hữu lịch sử" không được bàn tới. Chúng sẽ chỉ được xác định theo quy định của luật tập quán quốc tế. Tuy nhiên, nên biết rằng thuật ngữ sở hữu lịch sử chỉ được viện dẫn tới khi nằm trong bối cảnh của vùng nước lịch sử trong lãnh hải, điều đó hàm ý rằng các nước không thể thực hiện bất kì tuyên bố lịch sử nào bên ngoài chế độ lãnh hải.


Các quyền của các nước được đòi quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên bên ngoài lãnh hải được quy định trong chế độ thềm lục địa và EEZ. Vì vậy, mặc dù UNCLOS không nói trực tiếp, dường như rõ ràng rằng các nước đồng ý tham gia UNCLOS sẽ không thể thực hiện bất kì tuyên bố quyền lịch sử, vùng nước lịch sử bên ngoài lãnh hải của họ. Do điều này, hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng không có bất cứ cơ sở nào để cho TQ giữ vững quan điểm rằng “đường chữ U” tai tiếng của họ có thể được sử dụng như là một sự hậu thuẫn cho bất cứ yêu sách nào đối với quyền lịch sử hoặc vùng nước lịch sử bên ngoài lãnh hải. Vấn đề này sẽ được thảo luận chi tiết hơn ở phần sau.


TUYÊN BỐ ỨNG XỬ ASEAN-TQ 2002


Tuyên bố ASEAN-TQ 2002 về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã được các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và TQ thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở Phnom Penh ngày 4 tháng 11 năm 2002.


DOC nêu rằng các bên khẳng định lại sự tôn trọng và cam kết của họ đối với tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông như được quy định theo các nguyên tắc của luật quốc tế đã được công nhận một cách phổ quát, bao gồm cả UNCLOS. Ngoài ra, DOC  cũng nói rằng các bên liên quan sẵn sàng tiếp tục tham vấn và đối thoại về những vấn đề có liên quan, qua các phương thức sẽ được thoả thuận, bao gồm cả tham vấn thường xuyên về việc thực hiện Tuyên bố này. Nó cũng nói rằng các bên cam kết tôn trọng các quy định của Tuyên bố này và có những hành động phù hợp với nó. Ngoài ra, đoạn cuối cùng nêu rằng các bên liên quan tái khẳng định rằng việc thông qua một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông sẽ tiếp tục thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực và đồng ý làm việc, trên cơ sở của sự đồng thuận, hướng tới giải quyết rốt ráo mục tiêu này.


Sự mơ hồ của quy định về tự kiềm chế trong DOC 2002 đã dẫn đến các hiểu lầm và căng thẳng gia tăng. Quy định về tự kiềm chế nói rằng các bên cam kết thực hiện tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định bao gồm việc ngưng lại hành động đưa người tới sinh sống ở các thể địa lí hiện không có người ở - là một trong nhiều điều khác. Điều này gợi ra rằng các bên ngưng lại việc chiếm cứ mới và rằng họ không nên thực hiện các hoạt động trên các đảo mà họ đã chiếm nếu các hành động đó "làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định". Tuy nhiên, các bên dường như đã giải thích điều khoản tự kiềm chế để hàm ý rằng họ có thể tiếp tục tăng cường sự hiện diện của họ trên các thể địa lí mà họ đã chiếm. Nói cách khác, các bên dường như theo lập trường rằng hành động xây dựng các công sự, kiến trúc, đường băng và các cơ sở du lịch trên các thể địa lí họ hiện đang chiếm không phải là không phù hợp với quy định tự kiềm chế.


Một trong những điểm yếu dễ nhận thấy của DOC 2002 là nó không chứa điều khoản nào quy định về thủ tục hoặc các cơ chế đảm bảo các bên có nghĩa vụ "tôn trọng các quy định của Tuyên bố này và có những hành động phù hợp với chúng". Nó cũng không quy định bất kì cơ chế nào để đối phó với sự khác biệt có thể phát sinh trong việc giải thích hoặc áp dụng các quy định trong Tuyên bố, đặc biệt là quy định tự kiềm chế.


CÁC ĐỆ TRÌNH THỀM LỤC ĐỊA MỞ RỘNG 2009


Như đã nêu ở trên, Điều 76 của UNCLOS quy định rằng các nước ven biển với thềm lục địa rộng có quyền mở rộng tuyên bố thềm lục địa ngoài 200 hải lí, nhưng để làm như vậy họ phải làm một hồ sơ trình cho Ủy ban về ranh giới thềm lục địa (CLCS), Ủy ban này là cơ quan gồm các chuyên gia khoa học được thành lập theo UNCLOS. Theo quy định về thủ tục được CLCS thông qua, hầu hết các nước, bao gồm cả những nước xung quanh Biển Đông, được yêu cầu nộp thông tin cho CLCS cho đến hết ngày 13 tháng 5 năm 2009 nếu họ có ý định đưa ra yêu sách cho thềm lục địa vượt quá 200 hải lí.


Một số nước có yêu sách đã nộp hồ sơ cho CLCS để kịp hạn chót 13/05/2009. Khi những hồ sơ đệ trình đó có chứa khu vực xung quanh các thể địa lí do nước khác tuyên bố chủ quyền, các nước bị ảnh hưởng, như dự kiến, đã nộp Công hàm cho Tổng thư kí Liên Hợp Quốc để phản đối các hồ sơ đó nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình .


Trong năm 2009, Malaysia và Việt Nam đã nộp một hồ sơ chung và đồng thời Việt Nam đã nộp một hồ sơ bổ sung. Philippines đã thông qua luật về đường cơ sở mới làm cho các đường cơ sở quần đảo của họ phù hợp với quy định của UNCLOS. Họ cũng phản đối hồ sơ của Việt Nam và Malaysia, và dành quyền nộp hồ sơ riêng của mình về hướng Biển Đông.


TQ không những phản đối hồ sơ của Malaysia, Việt Nam và Philippines mà còn kèm theo bản đồ tai tiếng với yêu sách đường chữ U thâu tóm gần như toàn bộ Biển Đông. Điều này tạo ra những nghi ngờ cũ đối với bản chất yêu sách của TQ ở Biển Đông. Nó cũng đã kéo Hoa Kì vào vòng tranh chấp, và đã đẩy một số nước Đông Nam Á gần gũi Hoa Kì hơn.


Các tuyên bố đã được làm rõ thế nào


Các hành động của các nước ASEAN có tuyên bố thềm lục địa mở rộng đã làm cho các yêu sách của họ được rõ ra trong nhiều khía cạnh.


Thứ nhất, giới hạn bên ngoài EEZ 200 hải lí của Malaysia và Việt Nam đã được kê khai, tọa độ của chúng đã được công bố và lưu hành. Ngoài ra, ranh giới liền kề trong vòng 200 hải lí giữa Brunei và Malaysia đã được làm rõ bởi một thỏa thuận song phương giữa Brunei và Malaysia.


Thứ hai, Malaysia, Việt Nam và Brunei dường như đã chọn vị thế rằng những đảo mà họ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông không được hưởng gì hơn ngoài vùng lãnh hải 12 hải lí. Điều này suy từ sự kiện rằng họ không đòi hỏi EEZ cho bất kì thể địa lí nào trong Biển Đông, mà chỉ từ đường cơ sở dọc theo bờ biển lục địa của họ.


Thứ ba, Malaysia và Việt Nam đã yêu sách khu vực đối diện EEZ bên ngoài ranh giới 200 hải lí như là thềm lục địa mở rộng, nhưng lại để ranh giới biển giữa các thềm lục địa mở rộng của họ không xác định. Điều này sẽ tạo cho hai nước này quyền chủ quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên đáy biển và lòng đất trên thềm lục địa. Vùng nước trên khu vực thềm lục địa mở rộng sẽ là các vùng biển công, và việc khai thác các nguồn lợi thủy sản trong khu vực này sẽ tuân theo các quy định của UNCLOS về đánh bắt cá.


Thứ tư, Philippines đã xác lập các đường cơ sở quần đảo phù hợp với quy định tại phần IV của UNCLOS. Vì vậy, có thể suy ra rằng cuối cùng họ đã từ bỏ tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hình chữ nhật dựa trên các toạ độ trong Hiệp ướcParis  năm 1898 và đã làm cho tuyên bố chủ quyền quần đảo của họ phù hợp với UNCLOS.


Thứ năm, Philippines cũng đã làm rõ tuyên bố chủ quyền đối với các đảo ở nhóm đảo Kalayaan Group (KIG) và bãi cạn Scarborough qua việc nêu rằng các thể địa lí này sẽ được điều tiết bởi chế độ đảo tại Điều 121 của UNCLOS. Điều này có nghĩa rằng rằng họ sẽ đo lãnh hải 12 hải lí từ các đảo này bằng cách sử dụng các quy tắc chung về đường cơ sở, đó là đường mức triều thấp dọc theo bờ biển, chứ không phải bởi đường cơ sở quần đảo. Do đó, Philippines cũng đã làm rõ rằng họ sẽ không sử dụng các đường cơ sở đa giác thẳng xung quanh nhóm KIG như ranh giới cho các khu vực biển của họ. Điều này có nghĩa rằng đường đa giác thẳng chỉ đơn thuần là một cách thuận tiện để cho Philippines chỉ ra các đảo nào trong quần đảo Trường Sa mà họ tuyên bố chủ quyền thuộc chủ quyền của họ.


Thứ sáu, yêu sách của TQ được làm rõ ở một mức độ giới hạn nào đó. Bằng cách kèm bản đồ đường chữ U vào trong Công hàm phản đối đệ trình của Malaysia và Việt Nam, TQ đã chính thức thông báo cho cộng đồng quốc tế rằng bản đồ này có ý nghĩa quan trọng đối với yêu sách của họ ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa. Trước năm 2009, thế giới không rõ TQ có chính thức dựa tuyên bố của mình vào bản đồ này hay không.


Thứ bảy, các từ ngữ của Công hàm của TQ cũng làm sáng tỏ vị thế của họ ở một số khía cạnh. Trong Công hàm, TQ nêu rằng họ tuyên bố "chủ quyền" đối với các đảo và “vùng biển lân cận”. Nếu TQ làm rõ rằng với thuật ngữ ‘các vùng nước lân cận’ họ muốn nói là lãnh hải 12 hải lí được tính từ đường mức triều thấp của mỗi đảo thì điều này sẽ phù hợp với UNCLOS. Trong Công hàm, TQ cũng nói rằng họ tuyên bố "quyền chủ quyền và quyền tài phán" trong "các vùng nước liên quan". Nếu họ giải thích rõ rằng "các vùng nước liên quan" có nghĩa là họ chỉ tuyên bố EEZ trong vùng nước tiếp giáp với lãnh hải được đo từ đường cơ sở của mỗi đảo thì điều này cũng sẽ phù hợp với UNCLOS.


Cuối cùng, tuyên bố của TQ cũng được làm rõ ở mức độ nào đó qua những gì không được nêu trong Công hàm. Công hàm không đề cập đến "quyền lịch sử" hay "vùng nước lịch sử". Nó chỉ sử dụng ngôn ngữ của UNCLOS, đó là "chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán". Vì vậy, có vẻ như rằng TQ không khẳng định bất kì quyền lịch sử nào đối với các vùng nước bên trong đường chữ U và cũng không tuyên bố rằng các vùng nước bên trong đường chữ U như là vùng biển lịch sử của họ. Được biết một số học giả ở TQ và Đài Loan đã khẳng định như vậy khi thảo luận về tầm quan trọng của bản đồ đường chữ U thì vị thế của TQ là rõ ràng hơn.


Các tuyên bố đã không được làm rõ như thế nào


Những tuyên bố của Philippines vẫn còn chưa rõ ở hai khía cạnh. Trước hết, họ đã không thiết lập giới hạn ngoài của EEZ 200 hải lí theo hướng Biển Đông. Tuy nhiên, vì họ đã thiết lập các đường cơ sở quần đảo, có khả năng họ sẽ đo ranh giới của EEZ 200 hải lí từ các đường cơ sở quần đảo này. Thứ hai, Philippines đã tuyên bố rằng bãi cạn Scarborough và KIG sẽ được điều tiết bởi chế độ đảo tại Điều 121. Họ đã không làm rõ liệu họ có ý định coi tất cả các thể địa lí là các "đảo đá" - chỉ được lãnh hải 12 hải lí, hay họ có ý định tuyên bố một số thể địa lí là đảo - được hưởng một EEZ và thềm lục địa của riêng mình.


Thuật ngữ "vùng biển lân cận" và "vùng nước có liên quan" mà TQ nói đến trong Công hàm làm cho yêu sách của họ mập mờ. Tuy nhiên, vấn đề chính với Công hàm của TQ là sự kiện họ nói “xem bản đồ đính kèm”, sau các từ ngữ mơ hồ rồi đính kèm bản đồ chữ U tai tiếng. Điều này làm dấy lên lo ngại to lớn ở nhiều nước, bao gồm các nước ASEAN, và khơi dậy những nghi ngờ cũ về bản chất yêu sách và ý định của TQ ở Biển Đông. Các nhà phê bình TQ đã nhanh chóng tuyên bố rằng bằng cách kèm bản đồ, trên thực tế TQ đã yêu sách 80-90% Biển Đông như là lãnh hải hoặc vùng nước lịch sử, và tuyên bố như vậy là không phù hợp với UNCLOS hay luật quốc tế. Các phương tiện truyền thông tại Hoa Kì đã nhanh chóng chộp lấy điểm này, và giới quan sát tại Hoa Kì bắt đầu cho rằng hành động quyết đoán của TQ là một mối đe dọa cho quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.


Tuyên bố của TQ thậm chí còn mơ hồ hơn khi ta xem xét ngôn ngữ họ sử dụng trong Công hàm phản đối Luật đường cơ sở năm 2009 của Philippines. Trong Công hàm đó, TQ nêu rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với đảoScarborough (TQ gọi là Hoàng Nham) và quần đảo Trường Sa "và các vùng biển xung quanh chúng". Cụm từ "vùng biển xung quanh" thậm chí còn mơ hồ hơn là "vùng biển tiếp giáp". Vì vậy, ngoại trừ trường hợp bị hiểu sai do dịch thuật, có thể kết luận rằng chính sách của TQ liên quan tới bản chất yêu sách chủ quyền đối với các vùng nước trong Biển Đông là một chính sách "sự mơ hồ có chủ ý".


Ngay cả Indonesia, không phải là nước tranh chấp, cũng tin rằng cần phải đưa ra một tuyên bố chính thức liên quan đến Công hàm của TQ. Công hàm của Indonesia ngày 08 tháng 7 năm 2010 nêu lên hai mối quan tâm. Quan tâm thứ nhất, bản đồ chữ U kèm theo Công hàm của TQ thiếu cơ sở luật quốc tế và làm đảo lộn sự cân bằng đã được thiết lập trong UNCLOS. Quan tâm thứ hai, TQ nên có hành động nhất quán trong việc áp dụng UNCLOS, và tuân thủ lập luận cho các đảo đá và đảo trong Biển Đông như họ đã nêu rõ liên quan tới tuyên bố của Nhật Bản đối với Okinitorishima.


Tóm lại, các biện pháp do Malaysia, Việt Nam và Philippines thực hiện đã làm rõ yêu sách của hai nước này đến một mức độ đáng kể theo hướng phù hợp với UNCLOS. Ngược lại, các biện pháp được TQ thực hiện đã làm tăng nỗi sợ hãi và nghi ngờ rằng yêu sách của họ không phù hợp với UNCLOS và họ đang cố ý mơ hồ về cơ sở pháp lí đối với yêu sách của mình. Hậu quả là một bộ phận lớn trong cộng đồng quốc tế xem tuyên bố của TQ ở Biển Đông là bất hợp pháp.


GÁC TRANH CHẤP VÀ CÙNG PHÁT TRIỂN


Một trong những nguyên tắc cơ bản của chính sách của TQ trên Biển Đông từ thời Đặng Tiểu Bình là "gác tranh chấp và cùng nhau phát triển". Tuy nhiên, cụm từ này đã gây ra một số nhầm lẫn, vì một số học giả TQ cho rằng điều mà cụm từ này muốn nói là gác sang một bên các tranh chấp biên giới chồng lấn nhau, chứ không phải là gác các tranh chấp chủ quyền đối với các đảo. Tuy nhiên, cách giải thích theo lẽ thường của cụm từ này sẽ là mỗi nước tranh chấp vẫn giữ lập trường rằng họ có chủ quyền đối với các đảo tranh chấp, nhưng đối với những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà họ không thể đạt được một giải pháp toàn diện và bền vững vào lúc này thì họ đồng ý tách các vấn đề chủ quyền riêng ra và gác sang một bên những tranh chấp. Với việc gác tranh chấp, họ không từ khước hoặc chối bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình mà chỉ đặt chúng sang một bên.


Về lâu dài, giải pháp duy nhất khả thi có thể được cho các bên tranh chấp ASEAN là tham gia vào các cuộc thảo luận với TQ để thực hiện nguyên tắc "gác lại tranh chấp và cùng nhau phát triển". Tuy nhiên, cần phải rõ ràng ngay từ đầu rằng các thoả thuận đó không được ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của các tranh chấp chủ quyền và ranh giới biển liên quan.


KẾT LUẬN


Mặc dù chính sách của các nước có tuyên bố chủ quyền trong Biển Đông chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các mối quan tâm về kinh tế và an ninh, nhưng các tranh chấp ở Biển Đông không thể được hiểu đầy đủ trừ khi chúng cũng phải được soi chiếu kĩ càng bởi các quy tắc thích hợp của luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.


Trước năm 2009, tuyên bố của hầu hết các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đều không rõ ràng. Mặc dù các nước này đều trở thành thành viên của UNCLOS vào giữa những năm 1990, nhưng họ đã chậm chạp trong việc sửa đổi luật và thủ tục quốc gia để làm cho các yêu sách của họ phù hợp với UNCLOS.


Các đệ trình và các Công hàm nộp cho CLCS để kịp hạn chót 13/5/2009, đã làm tình hình thay đổi đột biến. Các biện pháp do các nước có tranh chấp thực hiện đối với thềm lục địa mở rộng có tác dụng làm rõ các tuyên bố của các nước ASEAN theo hướng phù hợp với UNCLOS và luật quốc tế.


Những tuyên bố của TQ đã được làm rõ ở một mức độ giới hạn. Tuy nhiên, các biện pháp do TQ thực hiện để đáp trả lại các biện pháp của các bên tranh chấp ASEAN đã đem tới thêm nghi ngờ về tính hợp pháp của yêu sách của họ và tính phù hợp của nó với luật quốc tế. Do đó, TQ sẽ chịu áp lực ngày càng tăng phải làm rõ tuyên bố của mình và làm cho nó phù hợp với UNCLOS.


Mặc dù giải pháp lâu dài duy nhất dường như là "gác tranh chấp và cùng phát triển ", nhưng đàm phán giữa các bên tranh chấp và TQ về các thỏa thuận hợp tác phát triển sẽ khó dàn xếp một khi mà tuyên bố của TQ vẫn còn bị xem là không phù hợp với UNCLOS. Hy vọng TQ sẽ rà soát lại chính sách đối với đường chữ U và làm rõ tuyên bố của mình theo hướng phù hợp với UNCLOS.


Trong khi đó, tiến trình hành động tốt nhất đối với ASEAN và TQ dường như là cùng làm việc với nhau trong thiện chí để đưa Tuyên bố ứng xử vào hiện thực.


Như vậy có vẻ như rằng mặc dù mối quan ngại về an ninh và lợi ích kinh tế sẽ tiếp tục khống chế chính sách, nhưng các nguyên tắc và quy định của luật quốc tế sẽ tiếp tục ảnh hưởng và giới hạn cuộc tranh luận vào một khung nào đó.

Saturday, July 30, 2016

Các đảo nào ở Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam?

Các đảo nào ở Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam?



Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có nhiều tài liệu lịch sử về thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa (TS) trước Pháp, và việc Pháp tuyên bố và thực hiện chủ quyền ở Trường Sa chỉ củng cố thêm cho chủ quyền của VN mà thôi. Tuy nhiên, theo những tài liệu đã được công bố dù có khá nhiều bằng chứng cụ thể, thuyết phục cho Hoàng Sa nhưng rất tiếc có không nhiều bằng chứng như vậy cho Trường Sa. Một vài bằng chứng thường được nêu là ngoài đội Hoàng Sa, triều Nguyễn còn lập thêm đội Bắc Hải phụ trách khu vực Trường Sa (và cái tên Bắc Hải này cũng trùng khớp với tên mà ngư dân Trung Quốc gọi khu vực Trường Sa trong các ghi chú đi biển do ông cha họ truyền lại có tên là ‘Canh lộ bạ’ ), hoặc Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (Phan Huy Chú) có nêu TS dưới tên là Vạn Lí Trường Sa là một phần lãnh thổ của VN hay "Đại Nam Nhất Thống Chí", 1882, thời nhà Nguyễn (1802-1945), cho thấy TS là phần của tỉnh Quảng Ngãi và hình như không thấy có bằng chứng cụ thể, rõ ràng nào hơn về thực hiện chủ quyền. Với những bằng chứng có vẻ không thật vững chắc như thế thì khó có thể có cơ sở để đòi chủ quyền ở Trường Sa và nhất là đòi chủ quyền cụ thể đối với các đảo nào. Vì vậy, việc đòi chủ quyền ở Trường Sa có lẽ phải dựa vào việc tuyên bố và thực hiện chủ quyền của Pháp khi họ thống trị VN và cũng có thể phải dựa vào việc chiếm đóng và thực thi chủ quyền hoà bình của VNCH và CHXHCNVN sau này đối các đảo khác.

Trong bài viết “Việt Nam nên hi sinh chuyện nhỏ để được chuyện lớn?” (http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Viet-Nam-nen-hy-sinh-chuyen-nho-de-duoc-chuyen-lon-post169714.gd) trao đổi lại với gs Ngô Vĩnh Long, tiến sĩ Trần Công Trục có dẫn Nghị định số 4702-CP ngày 21/12/1933 của Thống đốc Nam Kỳ Krautheimer với diễn dịch rằng Krautheimer sát nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm hai đảo (Song Tử Đông, Song Tử Tây), Loại Ta, Thị Tứ` và các đảo phu thuộc vào các đảo này vào tỉnh Bà Rịa. Nếu chỉ dẫn riêng nghị định này không thôi thì có lẽ chưa đủ để nói rằng ngoài các đảo có kể tên được sáp nhập vào Bà Rịa (Vũng Tàu hiện nay) còn có thêm các đảo phụ thuộc vào các đảo này nữa. Bởi vì điều 1 của nghị định đó chỉ ghi như thế này:

“Article 1. – L’île dénommée Spartly et les îlots Caye-d’ Amboine, Itu-Aba, Groupe de Deux-îles, Loaito et Thi-Tu qui en dépendent, situés dans la mer de Chine sont rattachés à la province de Baria.”

Tạm dịch:

“Điều 1. Đảo có tên là Trường Sa và các đảo nhỏ An Bang (Caye-d'Amboine), Ba Bình (Itu-Aba), Nhóm đảo Song Tử (Groupe de Deux îles, Loại Ta (Loaito) và Thị Tứ (Thi-Tu ) mà chúng phụ thuộc vào [đảo Trường Sa], nằm ở biển Đông được sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa.”


Nghị định số 4702-CP ngày 21/12/1933 của Thống đốc Nam Kì

Rõ ràng không có chỗ nào trong điều 1 có nói 'và các đảo phụ thuộc vào các đảo này' mà chì nói các đảo [nhỏ] nêu tên sau đảo Trường Sa phụ thuộc vào nó.

Tuy nhiên, nếu lưu ý thêm các căn cứ mà nghị định này dựa vào đặc biệt là “Thông báo của Bộ Ngoại giao [Pháp] về việc chiếm đóng một số đảo của các đơn vị hải quân Pháp ngày 19 tháng 7 năm 1933” trên Công báo nước Cộng Hoà Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933  (http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k6546978f/f46.item.zoom) thì cách diễn giải như thế này may ra mới có cơ sở và dĩ nhiên cũng cần phải thêm một số biện luận nào đó mới có thể thuyết phục. Bản gốc thông báo trên công báo như sau: 



Tạm dịch:

BỘ NGOẠI GIAO
Thông báo về việc chiếm đóng một số đảo của các đơn vị hải quân Pháp ngày 19 tháng 7 năm 1933.

Chính phủ Pháp đã ủy nhiệm cho các đơn vị hải quân chiếm đóng các đảo và đảo nhỏ được xác định dưới đây:

1. Đảo Trường Sa (L’île Spratly), nằm 8° 39'vĩ độ Bắc và 111° 55' kinh độ Đông Greenwich cùng các đảo nhỏ phụ thuộc. (Việc nắm lấy sở hữu đã diễn ra ngày 13 tháng 4 năm 1933).

2. Đảo nhỏ An Bang (Îlot Caye-d’ Amboine), nằm ở 7° 52' vĩ độ Bắc và 112° 55' kinh độ Đông Greenwich và các đảo phụ thuộc. (Việc nắm lấy sở hữu đã diễn ra ngày 07 tháng 4 năm 1933).

3. Đảo nhỏ Ba Bình (Îlot Itu-Aba), nằm ở 10° 22' vĩ độ bắc và 114° 21' kinh độ Đông Greenwich cùng các đảo phụ thuộc. (Việc nắm sở hữu đã diễn ra ngày 10 tháng 4 1933).

4. Nhóm Song Tử (Groupe de Deux-Îles), nằm ở 11° 29' vĩ độ bắc và 114° 21' kinh độ Đông Greenwich,  cùng các đảo phụ thuộc. (Việc nắm lấy sở hữu đã diễn ra ngày 10 tháng 4 năm 1933).

5. Đảo nhỏ Loaita (Îlot Loaito), nằm ở 10° 42' vĩ độ bắc và 114° 25' kinh độ Đông Greenwich cùng các đảo phụ thuộc. (Việc nắm lấy sở hữu đã diễn ra ngày 11 tháng 4 năm 1933).

6. Đảo Thị Tứ (Île Thi-Tu), nằm ở 11° 7' vĩ độ Bắc và 114° 16' kinh độ Đông Greenwich cùng các đảo phụ thuộc. (Việc nắm lấy sở hữu đã diễn ra ngày 12 tháng 4 năm 1933).

Những đảo và đảo nhỏ nêu trên từ nay thuộc chủ quyền của Pháp.

Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào 2 văn bản này thôi cũng chưa thể nói chủ quyền các đảo đã nêu thuộc về VN. Bởi vì dù các đảo đã được sáp nhập vào Nam Kì nhưng lúc đó Nam Kì là thuộc địa của Pháp và Pháp chỉ tuyên bố chủ quyền cho Pháp chứ không phải cho VN như trong Thông báo vừa dẫn.

Vì thế, cần có một bằng chứng cho thấy Pháp cũng đã trao chủ quyền Nam Kì lại cho VN, trong đó có Bà Rịa và do đó có các đảo ở TS. Một văn bản như vậy là “Luật số 49-733 sửa đổi tình trạng Nam Kì trong Liên hiệp Pháp” do Tổng thống Pháp Vincent Auriol ban hành ngày 04 tháng 6 năm 1949., bản đăng trên công báo Pháp ngày 5 tháng 6 năm 1949 (https://www.legifrance.gouv.fr/jo_pdf.do?id=JORFTEXT000000692906) như sau:


Tạm dịch:

Luật số 49-733 sửa đổi tình trạng Nam Kì trong Liên hiệp Pháp

Theo ý kiến của Hội đồng Liên hiệp Pháp,
Quốc hội và Hội đồng Cộng hòa đã bàn luận,
Quốc hội đã thông qua,

Tổng thống nước Cộng hòa ban hành luật có nội dung như sau:

Điều 1. - Trong khuôn khổ quy định tại Điều 60 Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp và sau khi có ý kiến đưa ra tại cuộc họp ngày 23 tháng 4 năm 1949, do Hội đồng lãnh thổ Nam Kì, tình trạng Nam Kì được chỉnh đổi theo những điều kiện dự kiến ở điều dưới đây.

Điều 2. - Lãnh thổ Nam Kì được sáp nhập vào Quốc gia liên hiệp Việt Nam theo các điều khoản của Tuyên bố chung ngày 05 tháng 6 năm 1948 và tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 19 tháng 8 năm 1948. Do đó, Nam kì không còn tình trạng là lãnh thổ hải ngoại.

Điều 3. - Trong trường hợp tình trạng của Việt Nam thay đổi, tình trạng của Nam kì sẽ được thảo luận thêm trong các hội đồng quy định ở Điều 75 Hiến pháp (Khoản VII: Về Liên Hiệp Pháp).

Đạo luật này được thi hành như luật của Nhà nước.

Làm tại Toulon, ngày 4 tháng 6 năm 1949.
Bởi Tổng thống nước Cộng hoà:
VINCENT AURIOL.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Henri QUEUILLE.
Bộ trưởng Bộ Pháp hải ngoại,
PAUL Coste-Floret

Nói thêm là khi thảo luận về luật này trong Quốc hội Pháp, nhóm nghị sĩ cộng sản đã bỏ phiếu chống luật này vì muốn giao Nam Kì cho VNDCCH (xem http://www.senat.fr/comptes-rendus-seances/4eme/pdf/1949/05/S19490525_1251_1290.pdf). Như vậy có thể nói, Quốc Hội Pháp đã thống nhất gần như tuyệt đối trao lại Nam Kì cho VN, chỉ có khác ở chỗ trao về phe VN nào mà thôi và do đó, Trường Sa thuộc VN.


Trên cơ sở 3 văn bản trên, VN có chủ quyền đối với các đảo có tên kể trên (một số trong đó hiện do bên khác chiếm đóng – xem bản đồ phần phụ lục) cùng với các đảo nhỏ phụ thuộc vào các đảo này, bất chấp có nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước khác hay không. Và dĩ nhiên để xác định cụ thể các đảo nhỏ nào thì phải cần làm rõ khái niệm ‘phụ thuộc’, chẳng hạn về địa chất, địa mạo, pháp lí… và chắc chắc phải qua đàm phán với các bên có liên quan như TS Trần Công Trục có gợi ý. Có vẻ những đảo nhỏ mà VN đóng quân sau này như Sinh Tồn, Sơn Ca… và những đảo nhỏ mà các bên khác chiếm thêm nằm trong ‘các đảo nhỏ phụ thuộc’ này. Dĩ nhiên, VN không thể đòi chủ quyền các đảo chìm theo phán quyết mới đây của PCA.


* Ba văn bản trong bài viết này tham khảo từ bài "Pháp làm gì với Trường Sacủa tác giả Dương Danh Huy (Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông)

----------------------------------------
Phu Lục: 
Bản đồ cho thấy tình trạng chiếm đóng của các bên ở quần đảo Trường Sa so với EEZ của VN, PLP và Mallaysia cũng như so với các đảo mà Pháp tuyên bố chủ quyền


- Quy ước màu icon: 
hường: VN, đỏ: TQ, xanh: PLP, xanh nhạt: Malaysia, gạch: Đài Loan, vàng: (chưa ai chiếm đóng) 
- Đảo với tên màu vàng là đảo được Pháp tuyên bố chủ quyền năm 1933.
- Khoảng biển xanh quanh đảo/cụm đảo là lãnh hải cùa các đảo nổi

Bản đồ này được vẽ dựa trên những thông tin thu được trên mạng. Từ bản đồ này, bước đầu có thể thấy:

- Trong 6 đảo/nhóm đảo được nêu trong nghị định của Krautheimer, VN chỉ giữ được 3 (Trường Sa, An Bang và Song Tử Tây), Philippines chiếm 3 (Loại Ta, Thị Tứ và Song Tử Đông), Đài Loan chiếm 1 (Ba Bình).

- Trong số các thể địa lí VN đang đóng quân có An Bang,Thuyền Chài nằm trong EEZ của Malaysia; Phan Vinh, Tiên Nữ, Cô Lin, Len Đao, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Nam Yết, Sơn Ca, Núi Thị, Tốc Tan, Núi Le nằm trong EEZ của Philippines với Tốc Tan và Núi Le có thể là đảo ngầm. Trừ An Bang có tên trong danh sách trong thông báo năm 1933 của Pháp, các đảo còn lại có lẽ coi là 'phụ thuộc vào' các đảo An Bang, Ba Bình hay Thị Tứ hoặc mới chiếm đóng hoà bình sau này.

- VN cũng có 3 chỗ đóng quân nằm ngoài EEZ các bên là Trường Sa Đông, Đá Đông, Đá Lớn và Đá Nam, trong đó  Đá Nam và Đá Lớn có vẻ là đảo chìm. Đá Nam nằm trong lãnh hải của Song Tử Tây đang do VN đóng quân nên không có vấn đề gì về chủ quyền, còn Đá Lớn có thể coi như cấu trúc nhân tạo nằm trong vùng biển quốc tế (khi Philippines chưa yêu sách thềm lục địa mở rộng).

- Các đảo nổi khác trong EEZ của Malaysia  do Malaysia đang chiếm đóng như Louisa, Sác Lốt, Hoa Lau.. hay trong EEZ của Philippines đang do Philippines chiếm đóng như Vĩnh Viễn, Bình Nguyên..., nếu VN muốn yêu sách chủ quyền thì phải chứng minh các đảo này là 'các đảo phụ thuộc' và phải qua đàm phán hay kiện ta toà án quốc tế.

- Suốc Ngọc trong EEZ của Philippines là đảo nổi duy nhất không có bên nào chiếm đóng.



Friday, July 22, 2016

Phạm vi tranh chấp ở biển Đông sau phán quyết của Toà Trọng tài

Phạm vi tranh chấp ở biển Đông sau phán quyết của Toà Trọng tài



Ngày 12/9/2016 Toà Trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague, Hà Lan đã đưa ra phán quyết vụ Philippines kiện Trung Quốc. Một trong những đóng góp chính của phán quyết này là giúp thu hẹp phạm vi tranh chấp trong vùng biển quanh quần đảo Trường Sa và qua đó cũng thu hẹp phạm vi tranh chấp trên toàn biển Đông.
Bài viết này chỉ ra các thay đổi về phạm vi tranh chấp trên biển Đông sau phán quyết và một số điều chúng ta có thể tận dụng để giành lấy các quyền chính đáng mà đáng lý chúng ta được hưởng theo luật pháp quốc tế.
Sau năm 1994, tức là sau khi Công ước về Luật biển của LHQ (UNCLOS) có hiệu lực, tất cả các quốc gia ven biển hay quần đảo đều có thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) lên tới 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng lên tới 350 hải lý nếu điều kiện địa lý cho phép(*). Trong phần biển này, nước chủ nhà được độc quyền khai thác tài nguyên sinh vật lẫn phi sinh vật trong biển và lòng đất dưới đáy biển, đổi lại phải từ bỏ những quyền tương tự từng có trong EEZ của nước khác.
Tuy nhiên, trước khi có phán quyết của PCA, với yêu sách đường đường lưỡi bò (ĐLB) mập mờ của Trung Quốc đưa ra vào tháng 5/2009 sau khi Viet Nam và Malaysia nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa LLHQ, thực tế toàn bộ diện tích bên trong ĐLB đã trờ thành đối tuợng tranh chấp và EEZ các nuớc bị thu hẹp chỉ còn những dải biển hẹp ven bờ như thể hiện ở bản đồ 1.
Bản đồ 1: Khu vực tranh chấp khi có mặt ĐLB
Với phán quyết của PCA tình hình đã thay đổi đáng kể. Chỉ riêng với kết luận của PCA trong phán quyết rằng ĐLB là không có sơ sở pháp lý thì phạm vi tranh chấp thu hẹp đáng kể. Phạm vi tranh chấp chủ yếu chỉ quanh khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa do bản thân các thể địa lý ở đó có tranh chấp và do đó các vùng biển mà chúng có thể đuợc huởng theo UNCLOS cũng trở thành tranh chấp. Nếu dùng trung tuyến làm ranh giới các chỗ chồng lấn (cách mà các bên khó bác bỏ) của EEZ có thể có của Hoàng Sa và Truờng Sa với EEZ tính từ bờ của các nuớc liên quan thì phạm vi tranh chấp như thể hiện trong bản đồ 2.

Bd2_NoU_EEZ.JPG
Bản đồ 2: Phạm vi tranh chấp  khi không có ĐLB [và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có EEZ]
EEZ Hoàng Sa tính từ đường cơ sở TQ tự vẽ, EEZ Trường Sa tính theo các đảo nổi
Còn nếu tính cả kết luận của PCA rằng không có thể địa lý nào ở Trường Sa là đảo (tức chúng chỉ được hưởng tối đa 12 hải lý lãnh hải bao quanh) thì phạm vi có tranh chấp quanh khu vực quần đảo Trường Sa thu nhỏ lại chỉ còn các khoảng biển 12 hải lí bao quanh các thể đia lý nổi như thấy trong bản đồ này. Và do đó, vùng không tranh chấp của Việt Nam  và các nước liên quan phần ở khu vực Trường Sa sẽ tăng lên thêm rất nhiều (xem bản đồ 3).
Riêng đối với khu vực quanh quần đảo Hoàng Sa, tình hình cũng có cải thiện nhưng không nhiều như ở khu vực Trường Sa. Quần đảo này hiện đang do Trung Quốc kiểm soát và theo họ, với tư cách một khối nó có EEZ và thềm lục địa được tính từ đường cơ sở thẳng phi pháp do họ tự vẽ bao quanh (theo UNCLOS chỉ những nước quần đảo mới được phép vẽ đường cơ sở loại này). Cũng lưu ý rằng theo phán quyết của PCA thì không có thể địa lý nào của quần đảo Trường Sa có EEZ nên EEZ do TQ yêu sách cho Hoàng Sa có thể vươn ra tối đa 200 hải lý về phía Trường Sa. Do đó, phạm vi tranh chấp quanh khu vực Hoàng Sa vẫn còn khá rộng (xem bản đồ 3).
Bản đồ 3: Phạm vi có tranh chấp của biển Đông (tô xanh)  và EEZ  không tranh chấp của Việt Nam (tô tím) sau phán quyết của PCA
Với phán quyết này, nếu Trung Quốc chấp hành thì VN, PLP, Malaysia...  có thể tự do hành xử các quyền theo quy định trong EEZ (trừ một ít khoảng biển có tranh chấp [như đã chỉ trong bản đồ 4] nằm trong hoặc chồng lấn với EEZ của mình) mà ko nước nào được phép cản trở. Những việc như đâm tàu, cắt cáp, đánh cá ,đơn phương cấm đánh cá, mở thầu thăm dò, khai thác tài nguyên… do nước ngoài thực hiện trong vùng này là những hành động phi pháp không thể biện minh. Nước chủ nhà có cơ sở vững chắc để đưa ra phản ứng thích đáng và dễ dàng nhận được sự ủng hộ của công luận quốc tế. Nước chủ nhà cũng dễ dàng hợp đồng với các công ty nước ngoài để thăm dò, khai thác tài nguyên dưới lòng biển trong vùng không tranh chấp này vì rủi ro bị cản trở giảm đi và nếu bị cản trở thì chính phủ của họ có cơ sở vững vàng để mạnh tay can thiệp. Hơn nữa, ngư dân các nước cũng có quyền đánh bắt cá trong vùng biển quốc tế (phần giới hạn bởi đường biên các EEZ của Việt Nam, Philippines, Malaysia,Malaysia và Indenesia ngoại trừ các khoảng biển còn tranh chấp). Thậm chí, chúng ta cũng có thể viện dẫn kết luận của PCA về việc ngư dân Philippines đuợc quyền đánh cá trong lãnh hải của bãi cạn Scarborough để đòi hỏi quyền đánh cá của ngư dân Việt Nam  bên trong các khoảng biển còn tranh chấp ở Hoàng Sa và Truờng Sa vì đây là ngư truờng truyền thống của ngư dân Việt Nam gui61ng như ngư dân Philippines trong lãnh hải của Scarborough.
Ngoài ra, trong khi chưa đòi được Hoàng Sa, chúng ta có thể viện dẫn kết luận "Toà cho rằng Công ước luật biển của LHQ không quy định cho một nhóm đảo như Trường Sa có thể tạo ra các vùng biển được hưởng với tư cách một đơn vị" trong phán quyết tìm cách bác bỏ đường cơ sở phi pháp của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa qua thương lượng, đấu tranh và thậm chí kiện ra toà , đặc biệt là khi có những vụ vi phạm của họ trong vùng có đánh dấu ‘?’, chẳng hạn như vụ giàn khoan 981 năm 2013. Cũng lưu ý thêm tình trạng của đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa cũng khá tương tự với đảo Ba Bình ở quần đảo Trường Sa. Vì thế có thể dựa vào phán quyết này của PCA để tìm cách thương lương hoặc nếu cần có thể đấu tranh hoặc kiện bác bỏ việc Phú Lâm có EEZ là điều hoàn toàn khả thi, dù có khó khăn. Học tập kinh nghiệm của Philippines trong vụ kiện này, với nguồn lực nhà nước cũng như khả năng của các học giả và các nhà nghiên cứ tư nhân, hi vọng chúng ta có thể tìm ra nhiều tài liệu lịch sử, địa lý, địa chất, thổ nhưỡng, thuỷ văn… các bản đồ, hình ảnh, ảnh vệ tinh… cho thấy Phú Lâm không thể duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế riêng theo những diễn giải về điều 121 của UNCLOS trong phán quyết để khi thích hợp khởi kiện về việc này (xem thêm phục lục). Nếu được cả hai điều này (Phú Lâm không là đảo và Hoàng Sa không thể có EEZ như một đơn vị duy nhất) thì phạm vi tranh chấp ở khu vực Hoàng Sa sẽ thu hẹp giống như ở Trường Sa sau phán quyết. Bản đồ 5 cho thấy phạm vi tranh chấp trên biển Đông lúc đó thu hẹp hơn nhiều, chỉ còn các khoảng biển 12 hải lý quanh các đảo nổi có tranh chấp. Dĩ nhiên, do điều kiện tự nhiên Việt Nam vẫn phải chấp nhận có 4 vị trí nằm một phần hay toàn bộ trong EEZ của mình (3 ở khu vực Hoàng Sa và 1 ở khu vực Trường Sa).
Bản đồ 4: Các khu vực tranh chấp khi quần đảo Hoàng Sa cũng không có EEZ
(Phần nằm giữa EEZ 200 hải lý của các nước trước mắt sẽ là vùng biển quốc tế)
Mặc dù ước muốn cuối cùng của chúng ta chủ quyền thiêng liêng đối với Hoàng Sa và Trường Sa, tuy nhiên trong tương tai không ngắn để đạt được mức độ như thể hiện trong bản đồ 4, thậm chí trong bản đồ 3 vẫn là điều rất tích cực: chúng ta sẽ an toàn hơn trong việc khai thác tài nguyên trong biển và dưới lòng đất trong hầu hết EEZ của mình như đã nêu trên. Ngay cả chỉ đạt được mức độ này cũng là quá trình đấu tranh không đơn giản trước tham vọng và thái độ bất chấp luật pháp của Trung Quốc như ta chúng đã và đang thấy. Theo các ràng buộc trong luật pháp quốc tế và các thỏa thuận của VN với Trung Quốc truớc mắt ta cần thuơng luợng với họ về các điều này và việc khởi kiện có vẻ là điều khó loại trừ và khả năng thắng kiện chắc chắn không nhỏ nhờ tiền lệ của vụ kiện đang bàn.
Còn một điểm nhỏ nữa, do được vẽ trước khi có UNCLOS nên đường cơ sở của VN do có những chỗ không phù hợp với quy định của Công ước này và như vậy cũng có ảnh hưởng tới EEZ dù không lớn lắm. Vì vậy để thật thuyết phục rằng EEZ của VN là chính đáng, có lẽ nhà nước VN cũng cần sớm điều chỉnh lại đường cơ sở này,
_______________
(*) Trường hợp điều kiện địa lí không cho phép, chẳng hạn bờ biển 2 bên cách nhau không tới 400 hải lý thì phần chồng lấn sẽ được chia theo trung tuyến (hoặc trung tuyến có điều chỉnh) hay theo thoả thuận của hai bên liện quan miễn không làm thiệt hại đến bên thứ ba khác.
- Các bản đồ trên sử dụng  trung tuyến vẽ sẵn của tổ chức Marine Regions ở Bỉ, và có tham khảo bản đồ của CSIS (Asia Maritime Transparency Initiative)
- Do không có thông tin về ngấn nước triều thấp (dùng làm đường cơ sở) quanh các đảo nên lãnh hải các đảo vẽ trong các bản đồ trên chỉ chính xác tương đối.


Phụ lục:
Toà trọng tài đã kết luận rằng tất cả các thể địa lí ở Trường Sa nằm trên mặt nước khi triều cao đều là đá (không hưởng EEZ hay thềm lục địa). Kết luận này được rút ra chủ yếu từ việc toà đối chiếu diễn giải của toà về điều 121 [“quyền mà một thể địa lí được hưởng tuỳ thuộc vào (a) khả năng khách quan của thể địa lí đó, (b) trong điều kiện tự nhiên của nó duy trì (c) một cộng đồng người ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài hay không thuần tuý khai thác trong tự nhiên.”] cũng như quan điểm của toà rằng “ Tòa án xem các sự hiện diện hiện tại này [các cơ sở thiết bị, nhân viên] là PHỤ THUỘC vào các nguồn lực và trợ giúp bên ngoài và lưu ý rằng rất nhiều thể địa lý đã được chỉnh sửa để cải thiện khả năng có thể sinh sống được, kể cả thông qua cải tạo đất và xây dựng cơ sở hạ tầng như các nhà máy khử muối”với tình trạng của Ba Bình, đảo lớn nhất ở Trường Sa.
Như Ba Bình ở Trường Sa, Phú Lâm là đảo lớn nhất ở Hoàng Sa. Nếu đảo này chỉ là đá thì một kết luận tương tự như thế cho Hoàng Sa hoàn toàn có khả năng xảy ra.
Mấy điều sau đây có thể xem là bằng chứng bước đầu cho việc lập luận Phú Lâm chỉ là đá:
1. Bài viết “Công trình xây dựng không thể quên trên đảo Vĩnh Hưng” của Nghê Thuỷ Minh trên trang web của Phòng địa chí Thượng Hải (http://www.shtong.gov.cn/node2/node70393/node83885/node83891/node83899/node83901/userobject1ai121797.html). Tác giả từng là Phó Tổng chỉ huy hậu cần công binh hải quân phụ trách công trình đường băng trên đảo Phú Lâm (1988-91) nên độ tin cậy của những thông tin trong bài khá cao. Những chi tiết đáng lưu ý trong bài như sau:
- “Người được phái tới quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) khó có thể chịu đựng được độ ẩm lớn, nhiệt độ cao, THIẾU NƯỚC NGỌT, thiếu rau cải, ĂN ĐỒ HỘP quanh năm.” (西沙群岛上使人最难以忍受的是湿度大,温度高,缺淡水,缺蔬菜,常年靠吃罐头食品。)
- “Lợi dụng mặt ĐƯỜNG BĂNG để thu thập NƯỚC MƯA, xây hai hồ chứa ngầm cả vạn mét khối giải quyết vấn đề nước dùng cho chiến sĩ, nhân viên trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) đồng thời kết thúc lịch sử thiếu nước ngọt của đảo Vĩnh Hưng” (利用机场道面收集雨水,建有两个地下万吨级储水库,解决了永兴岛上指战员的用水问题,同时也结束了永兴岛没有淡水的历史。)
- Trong những thứ xây dựng dọc đường Bắc Kinh trên đảo, tác giả có kể đến “XƯỞNG SẢN XUẤT NƯỚC NGỌT” (淡水制造厂:đạm thủy chế tạo xưởng).
2. Những chi tiết này cũng ăn khớp với những thông tin trên trang bách khoa (http://baike.baidu.com/view/28617.htm), một trang web chính thức và có uy tín của Tung Quốc:
- “NƯỚC GIẾNG đào trên đảo bị nhiễm phân chim nên KHÔNG UỐNG ĐƯỢC, chỉ có thể dùng để tắm rửa.” (洼地掘井取水方便,由于鸟粪的污染,井水不能饮用,只能用来洗涤。)
- “nước dùng sinh hoạt trên đảo Vĩnh Hưng là NƯỚC MƯA ĐÃ QUA XỬ LÍ thành nước uống và nước tắm rửa.” (永兴岛上的生活用水是经过处理的雨水,分为饮用水和洗涤用水。)
- “tàu TIẾP TẾ tới đảo Vĩnh Hưng mỗi tháng một lần, khi đó cư dân trên đảo dành ra 2 ngày để phụ giúp việc vận chuyển vật tư lên bờ.” (每月补给船到达永兴岛的时候,永兴岛居民都会放假两天,到码头协助卸下运补物资)
- “Vào thập niên 1970, lúc công việc mở mang đảo Vĩnh Hưng mới bắt đầu, những người thuộc lớp đầu tiên phải sống trong các nhà vách cây hay giấy dầu, UỐNG NUỚC MƯA chưa qua tinh lọc, ăn rau củ khô, đọc ‘báo tháng’, chưa có radio, TV; điện thoại không thông suốt, phương tiện đi lại giữa Hải Nam và Tây Sa chỉ có thuyền gỗ trọng tải nhỏ, chạy chậm, kém tiện nghi, điều kiện công tác sinh hoạt hết sức khó khăn.” (二十世纪七十年代,在永兴岛创业之初,老一辈“西沙人”住的是木板房、油毡房,喝的是未经净化的雨水,吃的是咸菜萝卜干,读的是“月报”;没有广播电视,电话也不通;在海南岛与西沙间往来的交通工具仅是小吨位的木船,速度慢,舒适性差,工作生活条件十分艰苦。)
3. Bản thân Tiêu Tiệp (Xiao Jie/肖捷), bí thư Tam Sa đã phát biểu năm 2012 như sau: “Ở đây KHÔNG có đất CANH TÁC ĐƯỢC. Mục đích chính của chúng tôi là bảo vể chủ quyền trên biển của đất nước” (xem Geoff A. Dyer, A Line With Nine Dahes http://www.viet-studies.info/kinhte/LineWithNineDashes_Dyer.htm).

Rò ràng những chi tiết này cho thấy đảo Phú Lâm tự nó không đảm bảo việc duỵ trì việc cư trú của con người mà phải phụ thuộc vào nguồn lục bên ngoài như PCA nhận xét cho đảo Ba Bình. Dĩ nhiên, để thuyết phục toà ta cần tìm kiếm và thu thập thêm bằng chứng khoa học cụ thể hơn như đội luật sư của Philippines đã làm (tài liệu lịch sử, đia lý, địa chất, thổ nhưỡng, thuỷ văn… các bản đồ, hình ảnh, ảnh vệ tinh…). Điều này có lẽ không nằm ngoài khả năng nếu ta quyết tâm, nhất là khi có nguồn lực từ nhà nước và nhiệt tình của đội ngũ học giả và các nhà nghiên cứu.

Wednesday, July 6, 2016

Tại sao có quá nhiều nước có yêu sách chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông?

Tại sao có quá nhiều nước có yêu sách chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông?

Các yêu sách tranh chấp nhau dựa trên lịch sử, địa lí và luật pháp - nhưng sức mạnh quân sự trần trụi là con át chủ bài

(Why do so many countries have claims to territory in the South China Sea?)

Cary Huang (Hoàng Trung Thanh)
SCMP (03/07/2016)



Tất cả các tranh chấp lãnh thổ giữa 6 nước láng giềng châu Á ở biển Đông, rốt cuộc, liên quan đến ba ngành học: lịch sử, địa lí và luật pháp.

Hầu hết các đảo, đá, rạn san hô và bãi cát ngầm được yêu sách đều không có người ở và một số thậm chí nằm dưới mặt nước khi triều thấp. Toàn bộ chúng chỉ gồm một vài cây số vuông nhưng trải rộng trên 2 triệu cây số vuông biển bao bọc bởi “đường chín vạch” của Trung Quốc, với Trung Hoa đại lục, Brunei, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Đài Loan đều có yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần của nhiều chuỗi đảo và vùng biển lân cận.

Điều đó làm cho một bối cảnh phức tạp mà ngay cả một phán quyết sắp đưa ra của Tòa Trọng tài Thường trực có thể không có khả năng giải quyết.

Các tranh chấp không chỉ là về bản đồ và lòng tự hào dân tộc mà còn về các quyền độc quyền của một nước đối với tài nguyên thiên nhiên ở các vùng biển xung quanh và dưới đáy biển, và về quyền chủ quyền trong việc quản lí tàu thuyền và máy bay của các quốc gia khác đi qua khu vực này, khu vực có chứa một số tuyến đường biển nhộn nhịp nhất và quan trọng nhất của thế giới.

Dư Mậu Xuân (Maochun Miles Yu), giáo sư lịch sử quân đội và hải quân Đông Á tại Học viện Hải quân Hoa Kì, nói rằng tất cả các bên tranh chấp đều sử dụng một, hai hoặc cả ba ngành học này để hậu thuẫn cho các lập luận của họ, nhưng các tranh chấp đều thu về một câu hỏi: điều gì làm một nước đủ tiêu chuẩn là chủ sở hữu chủ quyền đúng lẽ của một số đảo ở biển Đông.

“Đối với Trung Quốc, biện minh là những đề cập lịch sử trong các sách vở xưa; đối với Philippines, Malaysia và những nước khác, đó là sự gần gũi về mặt địa lí; đối với Việt Nam, đó là việc tích cực cai quản từ thế kỉ thứ 17 mà điều đó đúng ra phải cho Hà Nội quyền sở hữu các đảo này”, Dư Mậu Xuân nói.

Trung Quốc nói rằng các đảo này đã được bàn luận từ thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên trong các sách vở xưa như Dật Chu thư, Kinh Thi, Tả truyện, và Quốc ngữ, mặc dù chúng chỉ được mô tả một cách bao hàm như là một phần của “lãnh thổ phía Nam”.

Các nhà sử học Trung Quốc nói rằng nhiều tên khác nhau đã được sử dụng để mô tả các đảo này từ thời nhà Đường (618-907) đến thời nhà Thanh (1644-1912).

Trong thời kì Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ đã đưa vào bản đồ hơn 291 đảo, đá ngầm, và các bãi cạn tiếp sau vào những khảo sát trong thập niên 1930 và sau đó công bố một bản đồ có đường chín vạch vào năm 1947.

Sau cuộc cách mạng năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thừa kế yêu sách do Trung Hoa Dân Quốc đưa ra. Và vào năm 1958, Bắc Kinh đã ban hành một tuyên bố quy định lãnh hải của mình trong đường chín vạch, bao bọc quần đảo Trường Sa. Thủ tướng Bắc Việt lúc đó là Phạm Văn Đồng, đã gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng của Bắc Việt đối với lập trường của Trung Quốc.

Bắc Kinh đang tiến hành một cuộc vận động ngoại giao và quan hệ công chúng để huy động sự ủng hộ cho yêu sách của họ trước khi có phán quyết của tòa án quốc tế dự kiến vào ngày 12/7 trong một vụ kiện chống lại Trung Quốc do Philippines khởi xướng.

Ngày 09 Tháng 5, Trung Quốc công bố một bài viết dài, do Phó Oánh, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Quốc hội và cựu thứ trưởng ngoại giao, và Ngô Sĩ Tồn, chủ tịch của Viện Nghiên cứu Nam Hải (biển Đông) đồng tác giả, giải thích lập trường của Trung Quốc. Họ viết “Các đảo ở biển Đông và vùng nước xung quanh chúng do người Trung Quốc xưa phát hiện, đặt tên, và sử dụng đầu tiên, cũng như được các chính phủ kế tiếp quản lí và đã được coi là lãnh thổ và vùng biển vốn có của đất nước từ thời xa xưa, như được chứng minh trong rất nhiều hồ sơ lịch sử, sách vở địa phương và bản đồ”.

Bài viết, công bố trên cả hai tạp chí The National Interest ở Hoa Kì và tạo chí China Newsweek, nói rằng cộng đồng quốc tế - trong đó có Mĩ - trong lích sử đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này, cho đến gần đây.

Nhưng Mohan Malik, giáo sư về an ninh châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương của Honolulu, nói rằng xét về “bằng chứng pháp lí”, phần lớn các chuyên gia luật quốc tế đều đã kết luận rằng yêu sách của Trung Quốc về quyền sở hữu/danh nghĩa lịch sử (historical title) đối với biển Đông, bao hàm quyền chủ quyền trọn vẹn cùng với việc bằng lòng cho các nước khác đi ngang qua, là không hợp lệ.

Benjamin Herscovitch, giám đốc nghiên cứu Chính sách Trung Quốc, một công ti phân tích và tư vấn chính sách đóng ở Bắc Kinh, nói rằng Bắc Kinh vẫn chưa làm rõ ý nghĩa của yêu sách lãnh thổ lịch sử của họ bao bọc bởi đường chín vạch, mà ông nói là luôn không rõ ràng trong lịch sử và vẫn như vậy, dù gần đây Bắc Kinh có nỗ lực đưa ra biện minh.

Ông hỏi “Đó là yêu sách cho toàn bộ các vùng nước bên trong đường này hoặc chỉ đơn giản là các đảo và các thể địa lí khác? Nó liên quan đến Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà Trung Quốc là một bên kí kết, như thế nào? Vùng nước bên trong đường chín đoạn là lãnh hải hay chỉ đơn thuần là EEZ (vùng đặc quyền kinh tế)?”

Herscovitch, là một chuyên gia về ngoại giao châu Á và an ninh khu vực, cho biết Việt Nam cũng sử dụng tài liệu lịch sử để làm chỗ dựa cho yêu sách của mình, qua việc nói rằng họ có tài liệu chứng minh họ đã tích cực cai quản cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỉ 17.

Một bên chính khác trong khu vực là Philippines, viện dẫn sự gần gũi về địa lí đối với quần đảo Trường Sa là cơ sở chính cho yêu sách chủ quyền đối với một phần của nhóm đảo này.

Cả Philippines lẫn Trung Quốc cũng đòi chủ quyền bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) – cách Philippines hơn 160 km một ít và cách Trung Quốc 800 km.

Malaysia và Brunei cũng đòi chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông mà họ nói là lọt vào vùng đặc quyền kinh tế của họ, như quy định của UNCLOS.

Allen Carlson, phó giáo sư về chính quyền tại Đại học Cornell, nói biển Đông hiện nay đã bị cuốn đi với một hỗn hợp của các yêu sách  pháp lí quốc tế tương phản và nhiều câu chuyện lịch sử, của năng lực hải quân đang phát triển và tình cảm dân tộc. Carlson nói “Tình trạng này có vẻ đang tạo ra một cái gì đó giống như một hợp chất dễ bốc hơi trong vùng biển này, một hợp chất mà có thể chỉ cần một chút chất xúc tác là bùng cháy”.

Dư Mậu Xuân nói rằng lí lẽ của Trung Quốc là yếu nhất so với các bên tranh chấp khác vì đơn giản là người ta không thể chỉ dùng những đề cập trong sử sách về những nơi xa xôi làm biện minh chính cho các yêu sách chủ quyền hiện nay. “Nếu không, Marco Polo từng nói về Trung Quốc cho dân Ý vào thế kỉ thứ 13, điều đó có biện minh cho Ý yêu sách chủ quyền đối với Trung Quốc được không? Dĩ nhiên là không,” ông nói.

UNCLOS đã được tất cả các quốc gia ven biển chủ yếu có lợi ích ở biển Đông kí kết và phê chuẩn, nó cần giúp đem lại sự chắc chắn cho khung pháp lí áp dụng cho toàn khu vực. Tuy nhiên, các tranh chấp pháp lí và lãnh thổ vẫn kéo dài.

Dư Mậu Xuân nói rằng luật biển quốc tế hiện đại và quyền tài phán lãnh thổ coi trọng việc quản lí tích cực và sự gắn kết về địa lí (mở rộng tự nhiên của thềm lục địa là một ví dụ).

Không giống như các nước khác, yêu sách của Trung Quốc không dựa trên yêu sách đối với các đảo hoặc các thể địa lí cụ thể khác theo quy định của luật biển năm 1982 của LHQ, mà dựa trên một bản đồ lịch sử Trung Quốc chính thức nộp cho Liên Hiệp Quốc vào năm 2009. Bản đồ đó có đường chín vạch, tạo thành một hình chữ U chạy xuống bờ biển phía đông của Việt Nam vòng qua phía bắc Indonesia rồi tiếp tục chạy về phía bắc đến bờ biển phía tây của Philippines. Nhiều chuyên gia cho rằng đường chín vạch không phù hợp với luật biển năm 1982 của LHQ, luật này không chấp nhận yêu sách dựa trên lịch sử.

Nhưng Herscovitch nói rằng luật pháp quốc tế ít quan trọng trong tranh chấp biển Đông. Công ước của LHQ cũng vận hành hơi khác vì nó cũng chỉ ra rằng đất đai khám phá có thể chấp nhận được nếu là terra nullius (đất không thuộc về một quốc gia cụ thể) có nghĩa là đất mà không có quốc gia nào hành xử chủ quyền. Do đó, người ta có thể lập luận rằng quốc gia nào thực hiện quyền kiểm soát không bị thách thức đối với đất đai như thế thì yêu sách nó loại trừ tất cả các quốc gia khác dựa trên việc các quốc gia này “từ bỏ” quyền thách thức của họ. Theo quy định như vậy, không một quốc gia có thể chịu”từ bỏ” quyền của mình.

Trung Quốc kiểm soát hữu hiệu hầu hết các đảo, mặc dù là tương đối muộn dự phần khi đến chiếm đóng lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa.

Đài Loan chiếm một đảo trong quần đảo Trường Sa trước tiên sau Thế chiến II, và Philippines, Việt Nam và Malaysia tiếp theo sau.Theo Mira Rapp-Hooper, nghiên cứu viên cao cấp trong chương trình an ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm New American Security thì tất cả các nước này đều xây các tiền đồn và đường băng trên lãnh thổ họ yêu sách. Bắc Kinh bắt đầu điều động nhân sự để chiếm các rạn đá và đảo trong khu vực trong những năm 1980.

Từ năm 2012, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa nằm dưới  quyền kiểm soát của Trung Quốc, trong khi Trung Hoa đại lục, Việt Nam, Philippines và Malaysia đều kiểm soát các đảo ở quần đảo Trường Sa, với Đài Loan kiểm soát một đảo.

Alexander Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, cho biết trong một bài viết trên The Diplomat vào ngày 06 tháng 5 rằng Việt Nam chiếm 21 thể địa lí trong quần đảo Trường Sa, Philippines 9, Trung Quốc 7, và Malaysia 5.

Các nhà phân tích nói rằng vấn đề chủ quyền không thể giải quyết được theo luật pháp quốc tế, và cũng không nằm trong phạm vi thẩm quyền của tòa [trọng tài]. 

Herscovitch nói rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố quyền kiểm soát trên thực tế (de facto) trên những mảng lớn của biển Đông. Ông nói “Luật pháp quốc tế có thể làm đường chín vạch và chính sách rộng lớn hơn về biển Đông của Trung Quốc thành phi pháp trong mắt của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế nói chung là bất lực khi đối mặt với quyết tâm và ưu thế về sức mạnh quân sự trần trụi của Trung Quốc.”

Sunday, July 3, 2016

Tính dân chủ giả của Brexit

Tính dân chủ giả của Brexit

Cuộc bỏ phiếu thật sự tiết lộ điều gì

(Brexit's False Democracy - What the Vote Really Revealed)

Kathleen R. McNamara
FA (28/6/2016)

Trưng cầu ý dân là cơ chế tệ hại của nền dân chủ. Như một ví dụ minh hoạ, cuộc trưng cầu ý dân của Anh mới đây về tư cách thành viên của Vương quốc Anh trong EU là một canh bạc liều lĩnh, đặt ra một vấn đề-rất thực (sự cần thiết phải có tranh đua cởi mở và hợp pháp hơn trong EU) và biến nó thành một sự méo mó chính trị của giới chính trị chủ chốt cơ hội đến mức trơ trẽn. Cuộc tranh luận ầm ĩ về việc liệu Vương quốc Anh có tiếp tục là thành viên của EU đã bị sự dối trá và xuyên tạc xé nát, một số điều dối trá và xuyên tạc này đang được những người cổ vũ Brexit rút lại không dấu diếm; thậm chí báo chí Anh chua xót hối tiếc về sự ủng hộ ồn ào cho phe đòi tách ra. Thật không may là nhiều cử tri Anh có vẻ không biết chính xác EU là gì, xác nhận nghiên cứu gần đây cho thấy có sự thiếu kiến thức thực tế về Liên minh [châu Âu].

Do đó, những nhà quan sát cuộc trưng cầu ý dân này cần cảnh giác trong việc rút ra những kết luận về các nỗ lực toàn cầu hoá rộng lớn hơn, về trật tự phương Tây, về sự trỗi dậy tất yếu của các đảng dân tuý chống nhập cư, hoặc về tính khả thi của dự án EU nói chung. Câu trả lời cho câu hỏi hổn hển trên New York Times hôm Chủ Nhật—"Có phải trật tự sau 1945 do Hoa Kì và các đồng minh áp đặt trên toàn thế giới cũng sáng tỏ không?"—là đơn giản. Không, không phải thế. Và còn những cảm xúc và những ngăn cách về văn hóa được dùng để ảnh hưởng vụ bỏ phiếu Brexit không thể và không được bỏ qua.

Bài học thực tế của Brexit là có một phân chia có tính hệ quả giữa những người theo chủ nghĩa quốc tế (cosmopolitan) vốn nhìn tương lai với hi vọng và những người đã bị bỏ lại ở phía sau và nhìn thấy tình hình kinh tế cùng lối sống của họ bị xấu đi. Câu chuyện tương tự cũng có thể diễn ra tại Hoa Kì và các nơi khác, với các tác động quan trọng tới việc bỏ phiếu. Nhưng câu chuyện Brexit cũng nói lên sự độc đáo của EU như là một loại chính thể mới với tác động sâu sắc đến đời sống của tất cả mọi người bên trong nó. Lịch sử đã chỉ ra rằng sự phát triển của các hình thức chính trị mới hiếm khi diễn ra trơn tru. Sự chia rẽ giữa những người có thể và những người không thể hình dung một cuộc sống tốt hơn trong hệ thống mới sẽ tiếp tục thúc đẩy nền chính trị ở EU và các nơi khác trong nhiều năm tới.


CÓ Ý THỨC GIAI CẤP

Mặc dù cuộc trưng cầu Brexit là một hình thức rất không hoàn hảo về thể hiện dân chủ, những cảm xúc do các cử tri đòi Tách ra thể hiện ra là rất thực. Chúng phản ánh những cảm xúc quan trọng và thật của các cộng đồng dân tộc khác khắp các nền dân chủ phương Tây. Có hai thế giới con người, như phân tích các mẫu bỏ phiếu Brexit chỉ rõ, được phân chia theo kinh nghiệm và tầm nhìn của họ về tương lai. Trình độ học vấn, tuổi tác, và bản sắc dân tộc quyết định việc bỏ phiếu. Cử tri trẻ tuổi thuộc mọi nguồn gốc kinh tế và những người có học vấn đại học đã bỏ phiếu ủng hộ Ở lại. Cử tri lớn tuổi, những người thất nghiệp, và những người có một ý thức mạnh mẽ về bản sắc quốc gia Anh đã tìm cách tách ra.

Cuộc đấu tranh về Brexit là sự phản ánh của việc loại trừ xã hội phát sinh trong một thế giới bất bình đẳng kinh tế khắc nghiệt. Một cách nghĩ về việc phân chia này là xem nó như là cách nghĩ quốc tế (cosmopolitan) so với cách suy nghĩ cụ bộ (parochial), bắt nguồn từ các xu hướng xã hội và kinh tế sâu xa hơn vốn tạo nên động lực văn hóa riêng của họ. Chủ nghĩa thế giới, một cảm giác mình thuộc về một cộng đồng toàn cầu vượt qua biên giới trước mắt mình, đòi hỏi phải có sự tự tin ở vị trí của một người trên thế giới và hàm chứa một hi vọng về tương lai vượt tầm nhà nước-dân tộc (nation-state). Quan điểm cục bộ đang bị pha trộn với nỗi sợ hãi về tương lai đó và một cảm giác rằng sự biến đổi xã hội sẽ bỏ những cử tri thông thường ở lại phía sau. Một phần, nỗi sợ đó phản ánh việc mở cửa thị trường, nhưng nó cũng do các thay đổi trong công nghệ và những dịch chuyển rời xa việc bảo vệ giai cấp trung lưu và tầng lớp lao động rộng lớn hơn trong chủ nghĩa tư bản. Những dịch chuyển này không thể đổ lỗi hoàn toàn cho việc toàn cầu hóa; chúng cũng chẳng dính líu gì với chính trị và các quyết định về chính sách trong nước. Tại Vương quốc Anh và các nơi khác, các lựa chọn chính trị đã tăng tốc việc giảm công nghiệp hóa trong khi gây tổn hại mạng lưới an sinh xã hội và chẳng làm gì nhiều để ngăn chặn tình trạng bất bình đẳng đang tăng.

Với thực tế khắc nghiệt này đối với những người thất nghiệp, người già, và người thất học, những cảnh báo về thảm họa kinh tế của Brexit của chiến dịch vận động Ở lại không có nhiều sức nặng; nhiều cử tri cho rằng cơ hội của họ đã bị đóng lại từ lâu. Cách tiếp thị khôn khéo của chiến dịch vận động Brexit, kể cả các câu thần chú "Lấy lại quyền Kiểm soát" và "Bước ngoặt," nói lên những cảm giác về bị loại trừ rất thực nhưng đưa ra không nhiều giải pháp; thực tế là động lực chính trị của Anh, nhiều hơn là các quy định của EU, đã tạo ra các vấn đề xã hội và kinh tế của Vương quốc Anh.

Sự phân cách về kinh tế và tác động xã hội của nó đẩy vấn đề nhập cư lên hàng đầu trong cuộc tranh luận. Cử tri đã đúng rằng việc nhập cư của cả công dân EU lẫn di dân ngoài EU đã tăng lên rất nhiều, đặc biệt là kể từ cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, trong khi các nước khác trong EU đã phải vật lộn với những người nhập cư từ Syria và Iraq thì Vương quốc Anh chỉ có một số lượng nhỏ đơn xin tị nạn. Và các nghiên cứu cho thấy rằng những người nhập cư đóng thuế vào nhiều hơn phúc lợi họ lấy ra. Tuy nhiên, những nỗi sợ hãi tiềm ẩn này đã làm cho những sự thật như thế thành không quan trọng. Quả thật, các khu vực có nhiều người nước ngoài đã bỏ phiếu áp đảo ở lại trong EU. Những khu vực đó là những vùng đã được hội nhập vào một thế giới mới có tính quốc tế.


QUYỀN LỰC MỚI, VẤN ĐỀ MỚI

Cuộc chiến về Brexit là sự phản ánh về việc loại trừ xã hội nẩy sinh trong một thế giới bất bình đẳng kinh tế khắc nghiệt. Nhưng cuộc trưng cầu cũng nên được xem xét trong một lịch sử dài hơn nhiều của sự phát triển chính trị và xây dựng nhà nước. EU vượt xa hơn một tổ chức hay một hiệp ước thương mại quốc tế đơn giản, vì nó đã tích lũy quyền lực chính trị đáng kể trên một loạt khu vực rộng lớn. Chẳng hạn, các phán quyết của Tòa án châu Âu thế chỗ cho luật pháp quốc gia,và luật pháp của EU đã chuyển đổi cuộc sống hàng ngày ở châu Âu, ngay cả khi bộ máy hành chánh ở Brussels và sự hiện diện tài chính của nó vẫn còn nhỏ bé.

Trong lịch sử, các cơ quan thẩm quyền chính trị mới đã xuất hiện và tiến triển theo những cách rối rắm, xấu xa, và thường bạo lực. Những dự án thống nhất đất nước dính dáng tới cưỡng chế, nội chiến, và thực hành quyền lực tàn bạo. Người ta vẫn đang đấu tranh về những vấn đề về liên bang ở Mĩ hiện nay . Mặc dù nhà nhà nước-dân tộc có vẻ phổ quát và tự nhiên, chỉ riêng ở châu Âu đã có nhiều hình thức chính phủ khác: chẳng hạn chế độ quân chủ Hapsburg, quốc gia thành phố Ý, Thánh chế La Mã, và Liên minh Hanse (Hanseatic League), đã xuất hiện rồi ra đi. EU, với tất cả mọi khiếm khuyết, là một hình thức sáng tạo mới, một chính thể đang hình thành. Những người dưới 45 tuổi, và đặc biệt là những người dưới 30 tuổi, hãy ôm lấy nó và xem nó như là một điều tự nhiên và tích cực, một nền tảng cho cuộc sống thay đổi hàng ngày của mình, nó tạo ra nhiều cơ hội hơn là khi đóng nó lại.

Với sự chỉ đường của lịch sử, chúng ta không nên ngạc nhiên rằng sự tiến triển của EU đã tạo ra một phản ứng dữ dội. Nhưng chúng ta có thể bị chủ nghĩa cơ hội hèn nhát và việc thiếu lãnh đạo chính trị ở Anh và trên lục địa châu Âu trong việc hướng dẫn sự phát triển này làm kinh hãi. EU sẽ chỉ có tác dụng nếu tất cả các công dân của nó có thể hình dung chính mình là một phần của một chính thể dân chủ quốc tế, thịnh vượng, một chính thể có thể cân bằng quyền lực của địa phương, của quốc gia và của EU và tạo ra cơ hội kinh tế. Lắng nghe những người ở cả hai phía của màn phân cách văn hóa, và tìm cách giảm bớt sự bất bình đẳng kinh tế vốn là nền tảng cho sự phân chia giữa những người đầy hi vọng và những người bị loại trừ, là cách duy nhất tiến tới đối với EU—và các phần còn lại của chúng ta.