Saturday, November 16, 2013

LỜI KÊU GỌI DỪNG VIỆC THÔNG QUA DỰ THẢO HIẾN PHÁP

LỜI KÊU GỌI DỪNG VIỆC THÔNG QUA
DỰ THẢO HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM NĂM 1992
(SỬA ĐỔI 2013)



Kính gửi Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, như đang được thảo luận và chuẩn bị thông qua tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIII, về cơ bản vẫn như Hiến pháp hiện hành, thậm chí có một số điểm còn thụt lùi hơn trước. Điều đó có nghĩa là vẫn duy trì một nền tảng pháp lý lỗi thời của thể chế toàn trị, là nguồn gốc đã gây ra cho đất nước và nhân dân rất nhiều thảm họa, đặc biệt là cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội mà cả nước đang lâm vào và vẫn chưa có lối thoát.
Kể từ ngày tái thống nhất Tổ quốc, chưa bao giờ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị uy hiếp như ngày nay. Kinh tế đất nước chìm ngập trong tham nhũng và nợ nần, lòng dân phân tán, mất lòng tin vào hệ thống cầm quyền giữa lúc phải đối mặt với những thách thức hiểm nghèo trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại. Trong hoàn cảnh đó, việc Quốc hội khóa XIII thông qua một bản hiến pháp như thế sẽ chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn nữa vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc, cướp đi cơ hội chuyển đổi một cách ôn hòa thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ, tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Chúng tôi, những người khởi xướng và hưởng ứng Kiến nghị 72*, một lần nữa kêu gọi Quốc hội dừng việc thông qua tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIII Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đại biểu Quốc hội khóa XIII, với tất cả lương tri và ý thức trách nhiệm của những người có danh nghĩa đại diện cho nhân dân, hãy nhìn thẳng vào thực trạng đất nước, lắng nghe những ý kiến tâm huyết đóng góp xây dựng hiến pháp, để có đủ dũng khí quyết định dừng việc thông qua Dự thảo hiến pháp sửa đổi và trả lại quyền lập hiến cho nhân dân. Muốn vậy, phải tổ chức tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai những điểm cơ bản về thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau, tạo sự đồng thuận trong xã hội và tiến hành trưng cầu ý dân. Trường hợp vẫn đưa ra bỏ phiếu, chúng tôi kêu gọi các vị đại biểu bỏ phiếu không thông qua.
Chúng tôi mong đợi cử tri cả nước, tùy theo điều kiện của từng nhóm hay của từng cử tri, dùng các hình thức thích hợp yêu cầu các đại biểu Quốc hội tại địa phương mình hay mình quen biết có thái độ tích cực theo tinh thần nêu trên, đứng về phía nhân dân khi nêu ý kiến và bỏ phiếu về Hiến pháp.
Nếu cam chịu thông qua một bản hiến pháp như Dự thảo đang bàn thì Quốc hội khóa XIII sẽ có tội với Tổ quốc và nhân dân, và cá nhân các đại biểu Quốc hội khóa XIII đã bỏ phiếu thông qua sẽ phải chịu phần trách nhiệm nặng nề trước lịch sử, trước dân tộc.
Ngày 15 tháng 11 năm 2013
Những người khởi xướng và hưởng ứng Kiến nghị 72


DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN LỜI KÊU GỌI
DỪNG THÔNG QUA HIẾN PHÁP 15-11-2013


STTHọ và tên, chức danh (nghề nghiệp, nơi làm việc), thành phố/ nước
1.Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nhà toán học, Hà Nội
2.Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý, Paris, Pháp
3.Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu Lịch sử Văn hoá Huế, Huế
4.Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
5.Trần Ngọc Vương, GS TS, Đại học Quốc gia Hà nội
6.Phạm Minh Vũ, sinh viên khoa báo chí, No-U F.C., Quảng Trị
7.Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội
8.JB Nguyễn Hữu Vinh, blogger, Hà Nội
9.Nguyễn Hữu Vinh, cử nhân luật, doanh nhân, Hà Nội
10.Nguyễn Đình Vinh, thạc sĩ kinh tế, Phú Nhuận, TP.HCM
11.Trần Thế Việt, nguyên bí thư Thành ủy Đà Lạt, Đà Lạt
12.Nguyễn Văn Viễn, giáo dân, kinh doanh tự do, Hà Nội
13.Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
14.Nguyễn Thị Thanh Vân, Paris, Pháp
15.Lưu Trọng Văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM
16.Đỗ Minh Tuyến, blogger, Bangkok, Thái Lan
17.Nguyễn Đức Tường, TS Vật lý, Ottawa, Canada
18.Hà Dương Tường, GS Toán học, Paris, Pháp
19.Nguyễn Trí Tư, hưu trí, TP HCM
20.Hoàng Tụy, GS Toán học, nguyên Chủ tịch IDS, Hà Nội
21.Lê Thanh Tùng, Q.9, TP HCM
22.Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
23.Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Sydney, Australia
24.Nguyễn Anh Tuấn, kế toán viên, Thanh xuân, Hà Nội
25.Đỗ Anh Tuấn, kinh doanh, Phúc Yên, Vĩnh Phúc
26.Dương Văn Tú, Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ
27.Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
28.Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
29.Phạm Đoan Trang, nhà báo, Mạng lưới Blogger Việt Nam, Hà Nội
30.Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam tại TP HCM, TP HCM
31.Nguyễn Trung Tôn, mục sư, Quảng Xương, Thanh Hóa
32.Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
33.Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ, Hà Nội
34.Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp
35.Tưởng Năng Tiến, M.S.W. Narvaez Mental Health Clinic, San Jose, Hoa Kỳ
36.Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội
37.Đào Thanh Thủy, cán bộ hưu trí, Hà Nội
38.Nguyễn Tường Thụy, blogger, cựu chiến binh, Hà Nội
39.Nguyễn Thị Thục, nhà báo, nguyên phóng viên đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng, Đà Lạt
40.Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM
41.Lữ Văn Thu, sinh viên, Trường Xuân, Thanh Hóa
42.Ngô Thông, kỹ sư Điện toán, Sarasota, Fl 34235, Hoa Kỳ
43.Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
44.Trần Văn Thọ, GS Kinh tế, Tokyo, Nhật Bản
45.Đào Tiến Thi, thạc sĩ Ngữ văn, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
46.Âu Dương Thệ, TS Chính trị học, Hiệp Hội Dân chủ và Phát triển Việt Nam, Cộng hòa Liên bang Đức
47.Nguyễn Lân Thắng, Mạng lưới Blogger Việt Nam, No-U F.C., Hà Nội
48.Giuse Maria Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
49.Nguyễn Thị Phương Thảo, nhà văn/biên kịch, Hà Nội
50.Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
51.Nguyễn Văn Thạch, kỹ sư, TP Đà Nẵng
52.Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM
53.Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng
54.Lê Văn Tâm, TS Hóa học, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật Bản, TP HCM
55.Tạ Văn Tài, luật sư, Massachusetts, Hoa Kỳ
56.Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
57.Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
58.Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, Hà Nội
59.André Menras - Hồ Cương Quyết, nhà giáo, cựu tù trước 1975, Pháp
60.Đậu Vương Quyền, hưu trí, Nederland City, Hoa Kỳ
61.Trần Thị Quyên, nghề nghiệp tự do, TP HCM
62.Đặng Thanh Quý, nhân viên văn phòng, Washington, Hoa Kỳ
63.Nguyễn Đức Quốc, nhiếp ảnh gia, Lăng Cô, Huế
64.Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
65.Võ Quê, nhà thơ, Huế
66.Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TP HCM
67.Đinh Xuân Quân, TS, chuyên gia kinh tế, Bộ Nông nghiệp, Kabul, Afganistan
68.Dương Việt Quân, buôn bán, Q.6, Sài Gòn
69.Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
70.Đặng Bích Phượng, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
71.Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, nguyên Đại diện báo Nhân Dân ở phía Nam, TP HCM
72.Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, TP HCM
73.Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
74.Hoàng Xuân Phú, GS TSKH Toán học, Hà Nội
75.Nguyễn Thanh Phong, Anh Quốc
76.Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Giám đốc chính trị, Chủ bút nhật báo Tin sáng Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, TP HCM
77.Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
78.Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
79.Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
80.Hạ Đình Nguyên, cử nhân giáo khoa Triết Đại học Sài Gòn, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
81.Quang Nguyen, High School Teacher, San Jose, California, Hoa Kỳ
82.Phạm Văn Ngọc, sinh viên, TP HCM
83.Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên IDS, Hội An
84.Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
85.Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
86.Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
87.Ngô Minh, nhà thơ, sống và viết ở Huế
88.Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
89.Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
90.Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
91.Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM, TP HCM
92.Lê Đình Lượng, nghề tự do, Yên Thành, Nghệ An
93.Phan Văn Lợi, linh mục Công giáo, Giáo phận Bắc Ninh
94.Trịnh Hữu Long, nhà báo, Việt Nam, Hà Nội
95.Ngô Vĩnh Long, GS Sử học, University of Maine, Hoa Kỳ
96.Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Tổng Thư ký Uỷ ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam trước 1975, TP HCM
97.Nguyễn Duy Linh, xây dựng, Bình Tân, TP HCM
98.Lý Thanh Liêm, Inspector, Houston TX, Hoa Kỳ
99.Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
100.Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM
101.Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, TP HCM
102.Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên Viện phó Viện IDS, Hà Nội
103.Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
104.Vũ Minh Khương, Hải Phòng, Singapore
105.Lê Xuân Khoa, nguyên giáo sư thỉnh giảng, Viện Chính sách Đối ngoại, Đại học Johns Hopkins, Washington DC, Hoa Kỳ
106.Vũ Nhật Khải, GS TS, nguyên trưởng khoa Triết  Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội
107.Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
108.Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
109.Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng viên đại học, TP HCM
110.Hoàng Hưng, làm thơ - dịch sách - làm báo, TP HCM
111.Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, GS Đại học Liège, Bỉ, đã hồi hương, TP HCM
112.Nguyễn Thế Hùng, GS TS Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng
113.Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), nguyên GS Kinh tế, Đại học Laval, Quebec, Canada
114.Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, Nghệ An
115.Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại học Bách Khoa TP HCM, TP HCM
116.Trần Phúc Hòa, giáo viên, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
 
117.Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP HCM, TP HCM
118.Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia khoa học khí quyển, Bankstown NSW 2200, Australia
119.Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
120.Phạm Duy Hiển, kỹ sư, Vũng Tàu
121.Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp
122.Lê Minh Hằng, TS, Hà Nội
123.Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
124.Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó Ban Văn học Cổ Cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
125.Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
126.Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
127.Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ
128.Phạm Văn Hải, Software Developer, Nha Trang
129.Ngô Văn Hải, công nhân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái
130.Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS Đại học Paris 13, Paris, Pháp
131.Đỗ Khắc Hà, chủ doanh nghiệp, Hà nội
132.Lê Công Giàu, nguyên Tổng thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1966-1967), nguyên Phó Bí thư Thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM (1975-1980), nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM (ITPC), TP HCM
133.Nguyễn Thị Ngọc Giao, Chủ tịch Tiếng nói người Việt, Hoa Kỳ
134.Nguyễn Ngọc Giao, nguyên Phó Tổng thư ký Hội Người Việt Nam tại Pháp, Chủ biên tạp chí Diễn Đàn,Paris
135.Nguyễn Hữu Giải, linh mục Công giáo, Tổng Giáo phận Huế
136.Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí, TP HCM
137.Trần Tiến Đức, nhà báo, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục - Truyền thông, Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
138.Huy Đức, nhà báo, TP HCM
139.Lê Hiền Đức, nhà hoạt động dân quyền, Hà Nội
140.Phùng Liên Đoàn, TS, chuyên gia an toàn điện hạt nhân, chủ tịch VASF-CERSR-IVNF, Hoa Kỳ
141.Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
142.Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 4, khóa 5, TP HCM
143.Tạ Dzu, nhà báo tự do, quận Cam, Hoa Kỳ
144.Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
145.Lã Việt Dũng, chuyên viên tin học, No-U F.C., Hà Nội
146.Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế
147.Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
148.Phạm Chí Dũng, nhà báo, TP HCM
149.Lê Đăng Dung, kỹ sư thủy lợi, Đống Đa, Hà Nội
150.Lê Đăng Doanh, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
151.Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội
152.Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Giám đốc chi nhánh NXB Hội Nhà văn chi nhánh phía Nam, TP HCM
153.Phạm Hoàng Danh, làm thuê tự do, TP HCM
154.Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TP HCM
155.Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
156.Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
157.Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
158.Bùi Chát, Nhà Xuất bản Giấy vụn, TP HCM
159.Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
160.Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM, TP HCM
161.Lý Nhân Bản, kỹ sư điện toán, doanh nhân, Redwood City, California, Hoa Kỳ
162.Nguyễn-Khoa Thái Anh, cư dân California, Hoa Kỳ
163.Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP.HCM
164.Bùi Tiến An, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM
165.Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
* Kiến nghị ngày 19-1-2013 về sửa đổi Hiến pháp 1992, mang chữ ký trực tiếp của 72 người và tiếp đó có gần 15000 người ký hưởng ứng. 
Các thao tác trên Tài liệu

Wednesday, November 13, 2013

THƯ GỬI ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP. HỒ CHÍ MINH ĐANG THAM DỰ KỲ HỌP QUỐC HỘI LẦN THỨ 6

THƯ GỬI ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP. HỒ CHÍ MINH ĐANG THAM DỰ KỲ HỌP QUỐC HỘI LẦN THỨ 6

Posted by basamnews on November 12th, 2013

Kính thưa quý‎ vị đại biểu!

Chúng tôi, một số trí thức, nhân sĩ, cử tri của thành phố Hồ Chí Minh trân trọng gửi đến quý vị kiến nghị sau đây :
1. Qua theo dõi thông tin về kỳ họp Quôc hội với những trao đổi thảo luận và những ý kiến phát biểu tại diễn đàn cũng như một số kết luận của đoàn chủ tịch về nội dung bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Luật Đất đai, chúng tôi biết được rằng, một số đại biểu của thành phố ta đã có cố gắng trình bày một số ý kiến và đòi hỏi bức xúc của cử tri thành phố, chúng tôi đánh giá cao những cố gắng đó mà phát biểu của đại biểu Trương Trọng Nghĩa, đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm là những ví dụ cụ thể.
Tuy nhiên còn quá nhiều ý kiến bức xúc của cử tri thành phố, trong đó có ý kiến của chúng tôi được thể hiện trong Kiến Nghị về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 gửi đến Quốc hội ngày 19.1.2013 [ thường được gọi tắt là "Kiến nghị 72"] tập trung vào 7 điểm rất cụ thể với sự nghiêm túc, có trách nhiệm và xây dựng, đã không được Ban soạn thảo để ý đến. Vì vậy bản Dự thảo được đưa ra Quốc hội thảo luận đã không thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, của đông đảo cử tri, trong đó có chúng tôi.
Trên thực tế, bằng những điều đã làm, các vị đã không chấp hành Nghị quyết của Quốc hội về Sửa đổi Hiến pháp ban hành ngày 23.11.2012, trong đó ghi rõ phải tạo được sự đồng thuận xã hội, tập hợp đầy đủ ‎ ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân, giải trình đầy đủ và công khai những điểm đã tiếp thu đưa vào Dự thảo Sửa đổi và những điểm không tiếp nhận với l‎í do rõ ràng, minh bạch.
Ấy thế mà, những nhà lãnh đạo Đảng, Quốc hội và cả hệ thống báo chí và truyền thông Nhà nước vẫn nói rằng bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Luật Đất Đai đã được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình, nhất trí và quyết định cho biểu quyết để thông qua bằng được Bản Hiến pháp và Luật Đất đai trong kỳ họp này, bất chấp những ý kiến của nhiều đại biểu, quay lưng lại với đòi hỏi của đông đảo cử tri trong cả nước. Nếu vội vã thông qua Hiến pháp và Luật Đất đai khi còn quá nhiều điều bất cập thì đó là một sai lầm mà cái giá nhân dân ta phải trả là quá lớn, đất nước sẽ lại phải lún sâu vào khủng hoảng, trước hết là khủng hoảng lòng tin.
2. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm đại biểu cử tri của tp. Hồ Chí Minh ra Hà Nội gặp đoàn đại biểu Quốc Hội của thành phố ta để trực tiếp trình bày kiến nghị, bày tỏ ý chí nguyện vọng và thái độ của cử tri thành phố. Chúng tôi đã liên tục gọi điện thoại đến Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn Đại biểu QH thành phố, nhưng cuối cùng thì nhận được lời khuyên là đoàn đại biểu cử tri chúng tôi không nên ra Hà Nội vì sẽ không thể giải quyết được gì đâu!  Những gì cần làm thì các đại biểu QH của thành phố đã làm, nhưng những gì đã quyết định sẽ không thay đổi được.
Quả đúng là “sửa đổi Hiến pháp là việc trọng đại mà tác động của nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở bước tiến của lịch sử. Hậu thế sẽ đánh giá Quốc hội khóa XIII sẽ làm gì để thúc đẩy chứ không cản trở sự phát triển của dân tộc” như đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã phát biểu trước Quốc hôi.
3. Để hậu thế có cứ liệu mà đánh giá một cách chuẩn xác và nghiêm minh, chúng tôi Kiến nghị các đại biểu Quốc hội của thành phố Hồ Chí Minh chúng ta sẽ đi trước một bước, công khai danh tính gắn liền với quyết định bấm nút biểu quyết thông qua hay phủ quyết bản Hiến pháp sửa đổi và Luật Đất đai. Làm như thế, mỗi đại biểu Quốc hội sẽ phải đối diện với chính mình, đối diện với ”sự nghiêm túc tự vấn lương tâm và trách nhiệm“ như đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm đã phát biểu trong phiên thảo luận ngày 24.10.2013, trước khi đối diện với sự thẩm định của cử tri, sự phán xét của lịch sử.
4. Vì không đến gặp được đoàn đại biểu QH thành phố, chúng tôi kiến nghị qúy vị trình bày trước Quốc hội kiến nghị của chúng tôi yêu cầu Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp và lãnh đạo Quốc hội trả lời rõ lí‎ do không chấp nhận 7 điểm mà chúng tôi đã nêu lên trong “Kiến nghị 72″ gửi đến QH này 19.1.2013. Nếu không công khai và minh bạch điều này tức là không tuân thủ Nghị quyết của Quốc hội ngày 23.11.2012 nêu ở trên, cũng có nghĩa là không có đủ cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, không thể đưa ra biểu quyết thông qua Hiến pháp được.
Xin gửi đến quí‎ vị đại biểu lời chào trân trọng và kính chúc qu‎í vị dồi dào sức khỏe để tiếp tục nhẫn nại hoàn thành sứ mệnh cao cả mà cử tri thành phố đã trao cho quí vị.
                                                                         Tp. Hồ Chí Minh ngày 11.11.2013

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI GỬI THƯ :
1. Bùi Tiến An cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM
2. Huỳnh Kim Báu nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
3. Tống Văn Công nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TP HCM
4. Hoàng Dũng PGS TS, Đại họ Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh
5. Phạm Chí Dũng nhà báo, TP HCM
6. Lê Hiếu Đằng nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
7. Lê Công Giàu nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
8. Hà Thúc Huy PGS TS, Đại học Khoa học Tự nhiên, TP HCM
9. Lê Phú Khải  Nhà báo, nguyên phóng viên Đài Tiếng nói VN thường trú tại Miền Nam, TP HCM
10. Tương Lai nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
11. Cao Lập cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
12. Lương Văn Liệt nguyên cán bộ Thanh niên Xung phong, nguyên cán bộ Chi cục thuế, TP HCM
13. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết) nguyên Phó phòng PA 25 CA thành phố HCM, nguyên thư ký của Bí thư thành ủy TP HCM Mai Chí Thọ
14. Huỳnh Tấn Mẫm bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
15.. GB Huỳnh Công Minh linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
16. Kha Lương Ngãi nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
17. Hạ Đình Nguyên cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
18. Mai Oanh. Chuyên viên Phát triển nông thôn.  TP Hồ Chí Minh
19. Nguyễn Kiến Phước nhà báo, nguyên Đại diện báo Nhân Dân ở phía Nam, TP HCM
20. Tô Lê Sơn kỹ sư, TP HCM
21. Trần Công Thạch hưu trí, TP HCM
22. Lê Thân cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
23. Võ Văn Thôn nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
24. Phan Văn Thuận  giám đốc doanh nghiệp, TP HCM
25. Trần Quốc Thuận luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM
26. Nguyễn Thị Khánh Trâm nghiên cứu viên văn hóa, TP HCM
27.. Phạm Đình Trọng nhà văn, TP HCM
28. Võ Thị Bạch Tuyết hưu trí, TP HCM
29. Lưu Trọng Văn nhà báo, TP HCM

Wednesday, November 6, 2013

Bảng vàng thành tích oanh liệt 80 năm của “đảng ta”

 Bảng vàng thành tích oanh liệt 80 năm của “đảng ta”

(basamnews  6/11 2013)
06-11-2013
(VÀI LỜI NHẮN GỬI ĐẠI BIỂU “CUỐC” HỘI HOÀNG ĐĂNG QUANG) *
Một độc giả
NHỮNG “THÀNH TỰU” VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CSVN 80 NĂM QUA SỰ THẬT LÀ NHƯ THẾ NÀO? ĐẢNG CSVN CÓ THẬT SỰ XỨNG ĐÁNG ĐỂ NGƯỜI DÂN “CHỌN MẶT GỬI VÀNG”(MẶC ĐỊNH VÔ HẠN LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC) KHÔNG?

Khách quan công bằng mà nói, trước đây, những lãnh tụ tiền bối của đảng CSVN, ban đầu với mong muốn độc lập tự chủ cho dân tộc, và “giải phóng” giai cấp CN và nhân dân lao động, nhưng do ấu trĩ, mơ hồ, đã ăn phải bả đảng CS Liên Xô và quốc tế CS, dùng việc tuyên truyền “CNXH” (khoa học!-nhưng thực tế là viễn tưởng đến mức không tưởng) đã giác ngộ ( thực chất là lừa bịp) được người dân theo mình để sẵn sàng chết, và nhiều thế hệ đã chết vì sự nghiệp ấy.
Kết quả của việc lừa bịp của đảng về “giải phóng dân tộc”+khát khao độc lập của người dân mà có cuộc CMT8/1945, mà CS VN động viên được dân chúng ta dựa vào quân đồng minh, lợi dụng cơ hội sụp đổ của phát xít mà giành được độc lập.
Sau đó, cũng vì khát vọng độc lập và lại được tuyên truyền về “giải phóng giai cấp”(xóa bỏ bất công-để có công bằng xã hội?) nên người dân hăng hái theo đảng đánh Pháp, rồi nghe phe CS phỉnh nịnh, xúi dại, cấp vũ khí cho để trở thành người tiên phong (tay sai?) ngăn chặn CNTB cho Liên xô, Tàu có điều kiện hưởng thái bình (toạ sơn quan hổ đấu) và VN trở nên”tiền đồn” của …ở ĐNÁ”, “anh hùng” trong việc đuổi Mỹ, lật “Nguỵ” (?) là như thế.
Trong khi đó, các nước khác thì không cần phải trả giá đến mấy triệu sinh mạng mà vẫn có được độc lập thống nhất mà lại có được thêm giàu mạnh, ấm no, tự do, dân chủ thực sự. Thế nhưng bộ máy tuyên truyền của CSVN vẫn cứ tự vỗ ngực ca ngợi và tự hào, và do nhiễm độc nhồi sọ mà nhiều người đến nay vẫn ngộ nhận như vậy.
Sau khi đã nắm được toàn bộ quyền lực, đảng tiếp tục lãnh đạo xây dựng cái “thiên đường” “XHCN” ở ngay dưới hạ giới – VN:
Vì đã từng chứng kiến cảnh điêu linh của cải cách ruộng đất những năm 50 TK20, và ít nhiều được sống tự do, dân chủ, và sung túc trong thời kỳ “tư bản thực dân Pháp”, nên khi có hiệp định Giơ-ne-vơ, nhiều người, trong đó có những người công giáo- sợ chủ nghĩa vô thần-cộng sản, những người làm việc cho chế độ cũ, đã di tản vào Nam mong tiếp tục cuộc sống tự do (cuộc di cư này có tổ chức và không có những rủi ro lớn cho người di cư).
Sau đó, xảy ra việc hai bên tố cáo nhau vi phạm Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ và thực tế phía cách mạng nhà ta đã cài nhiều đảng viên, và cả lực lượng vũ trang, bán vũ trang, ở lại Miền Nam để tiếp tục lãnh đạo quần chúng với mục đích thống nhất đất nước bằng đấu tranh chính trị và bạo lực cách mạng – một phần vì vậy mà việc tổng tuyển cử đã không thể thực hiện được trong cả nước. Chính quyền thân tư bản ở miền Nam tổng tuyển cử riêng, truy lùng những người cộng sản cài cắm ở lại “bất hợp pháp?”- đây là vấn đề mà “ta” vẫn gọi là “Diệm ra luật 10/59, lê máy chém khắp Miền Nam, tố cộng, diệt cộng…” đây.
Được Liên Xô, Trung quốc “cổ vũ” (xúi bẩy, xui dại?) và cấp vũ khí (là chủ yếu), đảng ta tiếp tục lãnh đạo dân ta vượt Trường Sơn vào “giải phóng” Miền Nam, “giành hết thắng lợi này, đến thắng lợi khác”, đánh cho “Mỹ cút” 1973, “Nguỵ nhào” 1975. Mà những ngày cuối của cuộc chiến thì dù đã và đang được “giải phóng”, số người dân “ngoan cố” vẫn cứ chạy theo “bám đít” Mỹ “Nguỵ” chứ không muốn ở với chế độ mới với “thiên đường” XHCN”.
Ở miền Bắc, đảng lãnh đạo dân làm cách mạng XHCN bằng “cải tạo quan hệ SX” , với phong trào “hợp tác hoá”, “quốc hữu hoá tư bản tư doanh”, cái thiên đường “XHCN” ở Miền Bắc hình thành là các hợp tác xã mà 2 chục năm sau, khi “giải phóng” miền Nam – thì dân miền Nam mới ngớ ra là “cái thiên đường CNXH” hoá ra là rất ư đói rách: thì nông dân suýt chết đói nếu không “nới trói” kịp theo Đại hội 6.
Để “ổn định xã hội”: sau giải phóng, đảng bắt mấy chục vạn kẻ thất trận đi tập trung cải tạo dài hạn (thực chất là tù đày) – vì sợ họ không chịu khuất phục? Đảng tập trung người nhà của “chế độ bại trận” đi xây dựng kinh tế mới; bỏ mặc họ thiếu thốn đói rách.
Đảng xóa “tàn dư” “văn hóa lạc hậu” bằng thủ tiêu các “văn hóa phẩm” dưới chế độ cũ, tịch thu các tác phẩm, kiểm điểm (thậm chí bắt đi cải tạo, xử tù “phản động”, “phản tuyên truyền”) các nhà văn nhà báo viết những gì không ủng hộ quan điểm của đảng, khác quan điểm của đảng, hay chỉ là nói lên tiếng nói tự do của người dân, hay tác phẩm không có tính đảng… làm nhiều nhân tài, nhiều trí thức nhà văn như nhóm “Nhân văn Giai phẩm” ở miền Bắc sau 1954, các văn nghệ sỹ ở miền Nam sau 1975 bị thui chột, o ép, đày đọa, chết oan.
Đảng ngăn cản tự do tôn giáo, tín ngưỡng: phá bỏ nhiều đình chùa, nhà thờ, đền miếu sau 1954, ngăn cản (thậm chí lấy cớ để bắt bớ, đàn áp một số tín đồ) dằn mặt người dân theo đạo, hành đạo – sợ không quản lý được tư tưởng của họ, sợ họ bị tôn giáo “lợi dụng”. Sau 1975, thậm chí đảng còn “quốc doanh” hóa tôn giáo (Phật giáo VN chẳng hạn).
Từ khi giành được quyền lãnh đạo cả nước, đảng với cái nền tảng “sở hữu toàn dân” đã tiến hành “cải tạo quan hệ SX” bằng việc “đánh Tư sản””cải tạo công thương”, “hợp tác hóa” mà kết quả là thủ tiêu sản xuất hàng hoá theo phương thức Tư bản, thủ tiêu cạnh tranh dẫn đến làm suy sụp nền kinh tế công thương nghiệp, cả xã hội thiếu hàng tiêu dùng đến cái kim sợi chỉ cũng đem ra phân phối. Nhiều nhà tư bản có tầm, có tâm bị tịch thu tài sản, tù đày, chết oan, một số trốn chạy ra nước ngoài không chính thức, một số nộp tiền cho các nhà chức trách “lót tay” để được đi cùng với phong trào vượt biên.
Chính vì thấy rõ được “cái ưu việt, tốt đẹp” của chế độ “ta”, mà trong những năm 75-90, hàng triệu người dân miền Nam+một phần không nhỏ dân miền Bắc đã “bỏ phiếu bằng chân” bằng cuộc vượt biển lớn nhất trong lịch sử loài người: hàng triệu người bất chấp nguy hiểm rủi ro, hải tặc, sóng bão, cá mập, đói khát, thậm chí trong túi không có tiền bạc vẫn đóng bè để tìm đường đến với tự do-từ đây, từ điển ngôn ngữ thế giới có thêm từ vựng mới“Thuyền nhân”. Tại sao họ từ bỏ “thiên đường XHCN” tốt đẹp để ra đi nhỉ? Mà đa phần họ có làm gì cho chế độ cũ đâu? Họ có “chạy trốn” vì phạm tội gì đâu? Và khi đi có ai muốn quay về không? Tại sao người ta cứ bảo “nếu được đi thì đến cây trụ điện nó cũng đi”?… Cho đến nay, vẫn chưa hết hiện tượng “bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi” đó (dù không còn quy chế nhập cư cho người “tỵ nạn”, nhưng 8 tháng đầu năm 2013 vẫn còn có đến hơn 700 người Việt vượt biển tới Úc, 50 người tới Đài Loan…là sao?).
Ngoài ra, do lo sợ “con ngựa thành Tơ-roa” mà chính sách cực đoan “bài Hoa” cũng tạo ra những xáo trộn lớn trong những năm77-80 tạo cớ cho kẻ thù phương Bắc “dạy cho VN một bài học”.
Trong khi đó, xảy ra cuộc xâm lược “đòi đất” của Polpot ở biên giới Tây Nam được sự hậu thuẫn của quan thầy của chúng là Trung quốc ở biên giới phía Bắc, và sau đó chính Trung Quốc đã đem 60 vạn quân xâm lược các tỉnh biên giới phía Bắc .
Trong mấy cuộc chiến tranh đã qua do đảng lãnh đạo, nếu nói đánh giá khách quan và công bằng, thì đây mới là “công lao” có ý nghĩa nhất của đảng vì đây mới thực sự là cuộc chiến tranh để giữ độc lập, chủ quyền cho tổ quốc (để giữ đất độc lập cho đảng cầm quyền?) – nhưng điều này, “đảng ta” sợ Trung Quốc đến mức không những chẳng dám tự hào (mà còn sợ Trung Quốc đến nỗi cấm cả dân kỷ niệm ngày đánh thắng Trung Quốc xâm lược, tạo điều kiện cho Trung Quốc lập rất nhiều ”nghĩa trang liệt sỹ Trung Quốc” (chết do xâm lược mà được dựng nghĩa trang liệt sỹ ngay trên đất VN-có lẽ nay mai Gò Đống Đa cũng được xây nghĩa trang liệt sỹ Trung Quốc chăng?) – nhất là sau hội nghị Thành Đô đến nay (là hội nghị đầu hàng, bán nước của những người lãnh đạo đảng), họ tôn vinh 16 chữ vàng và 4 tốt, mặc cho TQ cướp biển đảo, lấn đất liền, bắt ngư dân, khoan dầu ngoài biển của VN (làm trò mua tàu ngầm, sắm máy bay SU30, tên lửa S300 để lấy lòng dân hay để gửi phần trăm vào đó? Vũ khí không xác định rõ kẻ thù thì vũ khi đánh ai, ai dám ra lệnh đánh, ai đánh?).
Tới những năm 1989-1992, lo sợ phong trào đòi dân chủ như Đông Âu và Liên Xô làm sụp đổ mình, lãnh đạo đảng “ta” không những không nhận ra quy luật khách quan về sự sụp đổ không thể tránh khỏi được của cái gọi là ”lý tưởng CS” và chế độ “CNXH” hoang đường, mà còn bảo thủ khi ông Nguyễn Văn Linh sang Đông Âu với để nghị “cứu CNXH” (chỉ sau đó một tháng thì toàn bộ khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ).
Thất bại với việc cầu và “cứu” CNXH ở Liên xô và Đông âu, đảng ta lúng túng (hết chỗ dựa về hệ tư tưởng?) và, thay vì quay về với quy luật khách quan là lấy chủ nghĩa dân tộc làm trọng như các quốc gia khác trên thế giới, thì lại tiếp tục tôn thờ “ý thức hệ” lỗi thời, mà ngả hẳn vào lòng CS Trung quốc để tiếp tục con đường “XHCN?” (giả cầy). Bắt đầu từ 9/1990, sau khi những người đứng đầu đảng và nhà nước VN sang Thành Đô (TQ) để “dàn hòa” với “đảng anh em” nhằm “cứu CNXH” (thực chất đây chính là sự đầu hàng nhục nhã đối với kẻ thù của dân tộc cốt chỉ để lấy chỗ dựa tồn tại cho cái “ý thức hệ” cộng sản – đảng CS) mà để có chỗ dựa này cho đảng CSVN, thì ngay sau đó VN đã phải chịu “những điều kiện tiên quyết” (rất đau đớn về biên giới và lãnh thổ…) để đổi lấy việc”bình thường hóa quan hệ “ giữa hai nước – thực chất là bảo kê cho sự tồn tại của đảng CSVN nhờ vào CS Trung Quốc). Đây là quyết định mù quáng và nguy hiểm nhất mà hệ lụy của nó thì ngày càng rất rõ ràng.
Quay về nước , để ngăn ngừa đối lập, ngăn tự do dân chủ “quá trớn”, đảng chính thức giải tán 2 đảng Xã hội và Dân chủ, mặc dù trước đó chỉ là 2 đảng hình thức, do đảng quản lý và tự đưa thẳng vào Điều 4 Hiến pháp cái điều rất mất dân chủ và trơ tráo là: chỉ riêng có và duy nhất đảng CS mới được quyền và vĩnh viễn cầm quyền lãnh đạo nhân dân (bất luận đảng xấu tốt ra sao?).
Cùng với chế độ công hữu, quy định quản lý đất đai là của “toàn dân”, của chung hoá ra là chẳng của riêng ai, và vì thế người dân đã không làm chủ thực sự mà quyền định đoạt thuộc về nhà nước, trong khi nhà nước là của đảng, mà đảng thì trao toàn quyền cho người trực tiếp cầm quyền, sinh ra tệ cha chung không ai khóc, người có quyền chức tha hồ mặc sức tham ô.
Chính 2 cái “tử huyệt” đó, 2 cái nền tảng đó của CNXH mà đảng có được quyền lực tối đa, quyền lợi tối đa và chính những người có quyền lực đã ”tự diễn biến” do cán bộ cầm quyền của đảng đã không thắng được chính mình, thoái hoá biến chất về đạo đức và lối sống rất nhanh (nhất là từ khi “đổi mới” theo “kinh tế thị trường, định hướng XHCN”), biến đảng từ một đảng cách mạng thành một đảng hoạt động chỉ vì quyền lợi của một thiểu số người cầm quyền, “nhóm lợi ích” và lũ mafia thao túng mọi đường lối chính sách của đảng và nhà nước.
Khi đã nắm được toàn bộ quyền lực, các cán bộ có quyền chức từ bắt đầu tư lợi, từ thu vén cá nhân làm giàu, đến tham ô vơ vét, từ sống xa dần cuộc sống người dân đến cuộc sống xa hoa, truỵ lạc, sa đoạ về phẩn chất đạo đức và lối sống người cách mạng. Cứ vậy quá trình diễn biến ”Tham-Sân-Si” làm biến chất người cầm quyền trong đảng, những người này, nhân danh đảng đã dần biến đảng từ một đảng cách mạng, thành một đảng phản động, đi ngược lại lợi ích của dân, thậm chí chống lại nhân dân, mà họ lại đổ cho “thế lực thù địch” đã dùng ”diễn biến hòa bình” biến cán bộ của họ thành ”tự diễn biến…”
Hiện nay đã đến “một bộ phận không nhỏ-tức là phần lớn” đảng viên hư hỏng thoái hoá biến chất cách mạng, tham nhũng, hủ hoá về đạo đức lối sống thì lãnh đạo ai?
Giới lãnh đạo quyền lực từ hơn chục năm lại đây đã tập hợp thành hệ thống, thành nhóm lợi ích để thao túng đường lối chính sách của đảng và nhà nước, để thực hiện tham nhũng khép kín từ trung ương đến địa phương. Những quyết sách của họ để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về kinh tế. Các vụ PMU, Vinashin… và rất nhiều vụ khác bị bưng bít che giấu, đã làm mất đi phần lớn tài sản của quốc gia vào túi các quan tham, quy ra ngang với 60 tỉ USD (1,4triệu tỷ đồng-theo thống kê đã được che đậy bớt của nhà nước), số tiền nợ nước ngoài tới độ kinh khủng (=165 tỉ USD, theo thống kê quốc tế=1,5GDP hàng năm) phải đến 2 năm chỉ làm, không ăn tiêu mới trả nổi.
Trước tình hình đó , chính phủ (X) giao cho các ngân hàng phải gánh nợ (trả tiền thay Vinashin), bù vào sự “thất thoát “ của các doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy, mà các ngân hàng có chỗ dựa (có lý do để tìm nguồn “bù vào chỗ đã gánh nợ thay”) để tự tung tự tác vơ vét, bằng cho vay nặng lãi làm cho sổ doanh nghiệp đã phá sản có thể tới một nửa số doanh nghiệp từng có, số còn lại đang đứng trước bờ vực phá sản, thị trường nhà đất đóng băng mà để cứu nó thì với riêng HN, nhà nước cần phải bơm ra khoảng vài chục tỷ USD. Những kẻ cầm quyền tìm mọi cách vơ vét hết tốc lực trong nhiệm kỳ của mình bằng khai thác ồ ạt tài nguyên (dầu mỏ, than, sắt, bô xít, vonfram, ….) đem bán, đẻ ra những dự án khủng (đường sắt cao tốc Bắc Nam, Điện hạt nhân, Sân bay Long thành, Sân bay Tiên lãng…. ) để có cớ vay nợ quốc tế về lấy tiền chi và rút % ra chia nhau. Bao nhiêu thứ thuế phí liên tục được sáng tác ra để móc hầu bao người dân. Bao nhiêu gạo, cà phê, điều, bao nhiêu cá tôm …. đem xuất khẩu để có tiền trả nợ, bù vào thâm thủng, trong khi nhiều vùng sâu vùng xa dân phải ăn mèn mén quanh năm.
Người công nhân ”giai cấp tiên phong” (mà đảng luôn nói là người đại diện quyền lợi cho họ) thì thất nghiệp, lương thấp đến độ “khoái ăn sang” mà để có chỗ ở, họ cần mấy trăm năm may ra mới mua nổi một căn hộ vài chục m2, các ngành giáo dục, y tế làm cho người dân điêu đứng khi đi học, thà chịu chết vì không có đủ tiền để đi chữa bệnh, chất lượng giáo dục, y tế quá tồi tệ, các doanh nghiệp độc quyền do nhà nước nắm tự do tăng giá xăng dầu, điện làm cho thu nhập thực tế của người dân liên tục sụt giảm, các loại thuế phí tăng liên tục để móc sạch túi tiền của người dân, nền văn hoá dân tộc bị băng hoại, các giá trị nhân bản bị đảo lộn: tung hô những chuyện chân dài bồ bịch, đĩ điếm, cờ bạc, loạn luân, chém giết, lối sống hủ bại dẫm đạp lên nhau để sống, không coi trọng đạo đức nhân cách kể cả giới lãnh đạo chóp bu.
Trước những đòi hỏi về tự do dân chủ, chống TQ xâm lược, chống tham nhũng…, rất nhiều người nổi tiếng là nhân sỹ, trí thức hàng đầu, nhiều vị là tướng lĩnh lão thành cách mạng và những người có công với nước, những người từng tham gia “khai quốc công thần”, cùng hàng vạn người dân đã mạnh dạn đề xuất nói lên những kiến nghị, góp ý để đảng nhà nước có những cải tổ thích hợp mà trước hết là xây dựng một bản hiến pháp thật sự vì dân, thật sự công bằng dân chủ văn minh tiến bộ làm cơ sở cho sự phát triển tốt đẹp nhất của đất nước. Nhưng thay vì tiếp thu, khuyến khích người dân để tự điều chỉnh hoàn thiện mình – những người cầm quyền lại tìm cách theo dõi, ngăn cản đe dọa, vu cáo và đàn áp bắt bớ bỏ tù người dân nói lên sự thật, gây lên bao nỗi oan trái và bất bình của những người có tâm có tầm, của những người dân nặng lòng với vận mệnh đất nước; họ thủ tiêu nhân tài bởi không có tuyển dụng cạnh tranh minh bạch…
Ấy vậy nhưng khi “phê và tự phê” , “bỏ phiếu tín nhiệm” (những trò mị dân rẻ tiền đã quá quen thuộc xưa cũ) cả 175uỷ viên TW, và 500 ông nghị gật (do đảng chỉ định –vì >92% nghị là đảng viên, quan chức đương chức) không tìm ra được một “con sâu” nào, không quy kết được cho một cá nhân phạm tội nào-chỉ có những kẻ tay sai dưới quyền phải chịu làm hình nhân thế mạng cho họ (nhưng cũng là những án tù rất nhẹ nhàng chưa đủ sức răn đe) ….
Như vậy xin hỏi HOÀNG ĐĂNG QUANG rằng: tình hình đảng và nhà nước ta như thế thì liệu, còn cứu chữa được đảng và chế độ không?
Nói thật (thô thiển theo lối dân gian), nếu HOÀNG ĐĂNG QUANG cố tình lập luận bào chữa, giải thích cho đảng (theo kiểu “định hướng dư luận” -thực chất là bao che dung túng cho sự lừa bịp dối trá một cách ngoan cố) thì người dân cũng chỉ thấy rằng HOÀNG ĐĂNG QUANG BẢO HOÀNG HƠN VUA, làm cái công việc “giữ L (đảng )… cho chúa (Trọng, X và bè lũ)” phét lác mà thôi.
Với một thể chế chính trị lạc hậu, phản động, chống lại người dân và còn ngoan cố khư khư giữ gìn thì chỉ là đồng lõa câu giờ vơ vét và gây thêm tội ác với nhân dân?.
Đã vậy, mỗi khi có ý kiến người dân tham gia góp ý, hiến kế, kiến nghị, tố cáo thì họ bỏ ngoài tai, họ tìm cách che giấu sự thật, họ quy kết những người đòi hỏi dân chủ tự do là “gây rối”, ”phản động”, ”thế lực thù địch”, ”tuyên truyền chống phá nhà nước”…  để lấy cớ đàn áp, bắt giam, bỏ tù họ.
Tóm lại, CNCS thực chất là tà thuyết lừa mỵ giai cấp CN và nhân dân lao động, hay là thứ CN hoang tưởng đã phá sản ở ngay quê hương nó sinh ra và gần hết hệ thống ngay từ cách đây hơn 20 năm -thời gian đó đủ để cho người cầm quyền CS ở VN biết mở mắt ra, không phải ngần ngại gì mà không vứt tổ nó đi, chứ không cần phải chữa chạy với mưu kế “sách lược” gì-nếu thực tâm vì dân vì nước-chẳng qua là kẻ cầm quyền đang lợi dụng nó “chết từ từ” để có thời gian nhằm mưu lợi riêng trong những tháng ngày còn lại.
Chưa bao giờ những vấn đề khó khăn về kinh tế được đảng CS giải quyết một cách căn bản: bởi lẽ cái nền tảng công hữu là nền tảng không cho phép phát huy cái mặt tốt của quản lý, của trách nhiệm cá nhân, là phải tham ô tham nhũng, là sản xuất không có năng suất cao, chất lượng kém vì không cần cạnh tranh.
Đã là so sánh để thấy tiến bộ hay yếu kém thì phải khách quan, minh bạch, đừng“mèo khen mèo dài đuôi” như vậy, đừng “trung ương hát, quan chức khen hay” như vậy:
Để biết mình tiến bộ hay thua kém , người ta không thể so sánh với chính người ta, mà phải so sánh với người khác để thấy mình giỏi giang cao lớn hay yếu kém ở chỗ nào?
Không thể so đứa con của mình 15 tuổi hôm nay, so với chính nó khi 5 tuổi để nói rằng nó đã cao, nặng, và giỏi hơn trước rất nhiều. Mà phải so nó với con nhà hàng xóm cùng lứa tuổi mới biết con nhà mình cao, nặng, và giỏi hơn hay kém hơn?
Với một quốc gia cũng vậy, phải so sánh với phần lớn các quốc gia khác khi có cùng một điều kiện, đừng đổ vì chiến tranh (do ai tạo ra? tại sao họ không có chiến tranh? mà mình cứ phải chiến tranh? vẫn có cách tránh chiến tranh khác kia mà, hơn nữa để xảy ra chiến tranh thì lỗi đó có phải là lỗi của dân không?).
Cộng sản, XHCN tốt đẹp nhưng như Bẳc Triều tiên, CNTB xấu xa mà như Hàn quốc, Thụy điển thì nên chọn mô hình nào?. Đó là một ví dụ về sự tương đồng như nước ta.
Vể cái thói tuyên truyền “mèo khen mèo dài đuôi”: những cái thành công tạm thời đạt được là do người cầm quyền bất lực buông xuôi mới thành ra nới trói cho người dân nên đã có những chuyển biến tích cực trong nông nghiệp chứ không phải tài giỏi gì ở người lãnh đạo.”Mất mùa là tại thiên tai, được mùa bởi tại thiên tài đảng ta”, nếu mà đảng có dân chủ và cầu thị thì những tiến bộ đó đã có từ những cuối thập niên 60 TK20 chứ không phải đến 1986.
Còn với các ngành khác, có vẻ ngoài là “tiến bộ, phát triển” như điện, đường sá giao thông, xây dựng là liên quan đến số tiền khủng vay nợ về đầu tư mà dựa vào đó, số % móc ra đút túi các quan nhà ta là rất lớn, đấy không phải là thực lực của nền kinh tế, đó là số tiền vay nợ nước ngoài (con số quốc tế thống kê đến 165-170 tỷ USD, bằng 2.000Mỹ kim/đầu người dânVN) mà nếu người ta đòi thì có mà bán hết thóc gạo, dầu thô, than, sắt, cá tôm, cà phê, các khu đô thị, đường sá…thậm chí cả “gái xuất khẩu’ cũng chẳng đủ trả một phần số nợ ấy.
Hiện tại, tất cả tài nguyên đất nước (mỏ dầu, than, sắt, bô xít…) đang bị các “nhóm lợi ích” ồ ạt khai thác vơ vét bán để lấy tiền riêng, vậy vài chục năm nữa thế hệ con cháu đất nước này sống bằng cái gì đây?
Đừng thấy bây giờ có nhiều hàng hoá, hàng rẻ hơn thời trước mà cho đấy là “thành tựu” do đảng làm ra. Nếu không “mở cửa” để được tư bản giãy chết cho tham gia vào cái chợ chung WTO, để mà có hàng mà mua, để có chỗ mà bán hàng, thì đến cái quần lót người dân mặc cũng sẽ còn phải phân phối. Đó là cái thuận lợi thời gian đầu gia nhập WTO mang lại hàng hoá nhiều cho mà mua thôi, cái này là cái ưu thế chung của 20 năm đầu được mua và bán trong cái chợ đó chứ đảng ta tài tướng gì ? Tới 2015 là thời điểm đáo hạn dồn dập của các khoản nợ quốc tế, cũng là thời điểm vơ vét của nhiệm kỳ đại hội 11 đảng kết thúc, bấy giờ là thời điểm hết nói phét bắt đầu đấy HOÀNG ĐĂNG QUANG ạ.
Là một đại biểu “cuốc hội”, vậy HOÀNG ĐĂNG QUANG đã xem “dự thảo hiến pháp” của Nhóm kiến nghị 72 chưa? Tại sao nhà cầm quyền VN lại sợ bản kiến nghị 72 đến như vậy? Và bản kiến nghị 72 đó có nội dung “phản động hay tiến bộ so với bản “hiến pháp của đảng” mà đảng và nhà nước cứ quy chụp, nhưng không vạch được ra cái nội dung nào là “phản động, chống phá” và không dám công khai và cố tình không công khai? 
Khách quan, “Dư lẫn viên” hãy xem kỹ và đối chiếu 2 bản hiến pháp đó mà rút ra lẽ phải. Tại sao có Tuyên bố công dân tự do”, Góp ý của hội đồng Giám mục VN, mà những lời tuyên bố, kiến nghị, góp ý ấy dù mới được rỉ tai truyền miệng, phải xem lén trên mạng bị tường lửa, dù bị bôi nhọ, ngăn cấm đe dọa, bắt bớ bỏ tù; sau khi công bố trên mạng chỉ một thời gian ngắn vẫn có hàng chục ngàn người “dám ký tên?” Do quá khát khao một nước VN có tự do dân chủ, công bằng văn minh và phát triển, một nước VN độc lập tự do, mà ở đó người dân thực sự hạnh phúc ngang với các quốc gia khác trên thế giới, đó là tiếng nói thật lòng, là nguyện vọng tha thiết chính đáng của người dân VN hiện nay. Nhưng trái với những tuyên bố của người cầm quyền rằng “khuyến khích tự do góp ý XD hiến pháp”, “không có vùng cấm” thì họ lờ tịt, ngăn và giấu không cho dân được biết nội dung kiến nghị 72, tuyên bố công dân tự do, góp ý của hội đổng giám mục… ấy như thế nào, nhưng cứ vu bừa, quy kết láo rằng là “phản động, thế lực thù địch…”.
Về mặt nguyên lý: “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”, “cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng”,vậy thế thì với kinh tế như hiện nay (thực chất là kinh tế tư bản, sản xuất theo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, lấy lợi nhuận làm hàng đầu, với nhiều thành phần-điều mà trước đây những nhà lý luận cs ra sức phê phán vì cho là bóc lột, thì nay nhổ ra rồi liếm lại), vậy tại sao vẫn đòi một mình một chợ lãnh đạo (thì lãnh đạo sao được với những thành phần ngoài quốc doanh?)ngày nay, CNXH kiểu Việt nam là “kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN” thì thật là điều nực cười, bởi không thể ăn thịt chó mà lại bảo rẳng tôi đang ăn chay, lừa bịp kiểu này thì liệu lừa được ai? Bế tắc về lý luận đến mức cứ “phát kiến” bừa (đúng hơn là thủ đoạn lừa dân?), bởi chỉ họ mới có quyền nói, còn người dân thì đã bị họ bịt miệng-bịt tai-bịt mắt bằng hệ thống tuyên truyền đồ sộ độc quyền với 17000 người “cả vú lấp miệng em” mà mỗi năm hệ thống này tiêu mất hàng ngàn tỷ tiền thuế của dân đóng góp .
Tóm lại, CNXH thực sự là hoang đường, chế độ CSVN đã thực sự đã trở lên lưu manh phản động. Sẽ không bao giờ đảng CSVN khắc phục được những cái “sai lầm” nếu còn tiếp tục không “nghe dân và vì dân”, quay lưng lại với người dân và còn ngu xuẩn coi Mỹ như một kẻ xâm lược, hay bạc nhược ươn hèn với bọn bành trướng Trung Quốc bằng luận điệu mỵ dân ”nước xa không cứu được lửa gần”, ” lạt mềm buộc chặt?”. Khỏi phải bàn dài dòng: nếu không đa đảng nhanh thì không những đảng CS không giữ được (ngay cả cái xác chứ đừng nói cái hồn) mà đất nước này sẽ rơi vào tay đại Hán, điều này đang hiện hữu rất nhanh chóng.
Phải nhìn thẳng vào sự thực: Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là một đảng yêu nước và không ai trong số những người có quyền nhất trong chế độ đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc lên trên hết cả. Họ ứng xử không khác gì một lực lượng chiếm đóng. Tất cả đều chủ trương đàn áp thẳng tay mọi khát vọng dân chủ và không một ai mảy may xúc động trước những bản án nặng một cách dã man đối với những thanh niên chỉ có tội yêu nước, đòi dân chủ và phản đối chính sách xâm lược của Trung Quốc. Đàn áp chính trị đã rất thô bạo trong hơn ba năm qua và sẽ còn hung bạo hơn nữa trong những ngày sắp tới.
Những kẻ lãnh đạo đảng CSVN nghĩ rằng có thể dựa vào Trung Quốc, cùng với việc nắm giữ lực lượng công an quân đội để khi cần dùng làm công cụ đàn áp người dân để tiếp tục duy trì sự thống trị đất nước. Tội này là gì nếu không là tội của những tên tay sai tiếp tay cho kẻ xâm lược? Nó còn tệ hơn tội phản quốc, đây đồng thời cũng là một sai lầm lớn cho chính họ.
Phải nhìn thẳng vào sự thực:
Thủ phạm đã gây ra hàng triệu cái chết cho người dân VN suốt 80 năm qua là đảng CS.
Thủ phạm gây ra bao bất công trong XHVN hiện nay là đảng CS.
Thủ phạm gây ra sự tụt lùi so với các nước khác trên thế giới là đảng CS.
Thủ phạm gây ra sự bạc nhược ươn hèn, quỳ gối làm tay sai cho tàu cộng, bán đất buôn dân là đảng CS.
Thủ phạm của nạn tham nhũng vô phương chữa trị là đảng CS.
Cho nên:
Việc đảng CSVN tùy tiện áp đặt đưa vào Điều 4 Hiến pháp của quốc gia khái niệm MẶC ĐỊNH VÔ HẠN CHO PHÉP ĐẢNG CSVN LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC LÀ ĐIỀU PHI LÝ, và nếu cái gọi là “Hiến pháp”ấy vẫn cứ được đảng chỉ thị cho quốc hội để “thông qua” theo kiểu bịp bợm mà chưa được trưng cầu ý dân dưới sự giám sát công khai minh bạch của quốc tế thì lại càng hết sức phi lý: bởi KHÔNG NGƯỜI DÂN NÀO MUỐN GỬI TRỨNG CHO ÁC như thế HOÀNG ĐĂNG QUANG ạ, ông hãy nhớ lấy điều đó, và người dân Việt Nam sẽ không tha thứ cho đảng CS VN vì điều đó.
——
* Trên đây là phản hồi của một độc giả khuyết danh, trả lời cho Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình Hoàng Đăng Quang, tác giả bài trên báo “Đại biểu nhân dân”: Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi được ghi nhận trong Hiến pháp với tư cách là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Diễn đàn XHDS biên tập và đặt tựa.

Friday, November 1, 2013

Gót chân Achilles của Trung Quốc ở Đông Nam Á

Gót chân Achilles của Trung Quốc ở Đông Nam Á

(bài đã đăng trên basam.info 02/11/ 2013)
Tác giả: Benjamin Schreer, ASPI
Người dịch: Huỳnh Phan
01-11-2013
East Asia SummitBình luận gần đây về việc Tổng thống Barack Obama hủy bỏ vào phút cuối chuyến đi của ông đến cuộc họp APEC tại Bali và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Brunei phản ánh áp đảo lối suy nghĩ cổ điển ‘tổng bằng không’. Dư luận chung là tính đáng tin của việc Mĩ ‘xoay trục’ đã bị xói mòn nhiều thêm nữa, và rằng Trung Quốc đã sử dụng sự vắng mặt của Obama để củng cố vị trí của mình với các quốc gia ASEAN.
Tuy nhiên, chính trị quốc tế hầu như không theo động lực nhị phân như vậy. Trên thực tế, vì nhiều lí do, mục tiêu của Bắc Kinh nhằm tăng cường vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á với cái giá mà Washington phải chịu rất có nhiều khả năng thất bại. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo khu vực đều hiểu rất rõ rằng chuyến đi Đông Nam Á của Tổng thống bị hủy không đồng nghĩa với một sự thay đổi trong chiến lược châu Á của Hoa Kì. Các cường quốc khu vực chính như Malaysia và Indonesia thừa nhận việc Obama ở nhà là chuyện bắt buộc. Thay vào đó, Ngoại trưởng John Kerry đã tham dự cả hai cuộc họp và đã đưa ra thông điệp chính mà các nước Đông Nam Á muốn nghe: Mĩ hi vọng Trung Quốc và các nước láng giềng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông một cách hòa bình.
Thứ hai, thông điệp này làm lộ gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á: trong khi các nước ASEAN có tranh chấp đang mong muốn đàm phán, Bắc Kinh lại không sẵn sàng thỏa hiệp về chủ quyền lãnh thổ quá đáng của nước này ở Biển Đông. Tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lí Khắc Cường không những lặp lại rằng Bắc Kinh có ‘các quyền không thể tranh cãi’ bên trong đường ‘chín đoạn’ mà ông còn cảnh báo các nước không trực tiếp có dính dáng, kể cả Úc và Nhật Bản, phải đứng ngoài các tranh chấp này. Như vậy, Trung Quốc không đạt được nhiều tiến bộ trong việc thuyết phục các nước Đông Nam Á về thiện ý của mình. Nói một cách đơn giản, hành vi quyết đoán của họ trong Biển Đông đã gây ra hao hụt hầu như khó khôi phục về lòng tin giữa Bắc Kinh và các nước ASEAN. Nó cũng mở ra một con đường cho các đấu thủ bên ngoài như Ấn Độ và Nhật Bản tăng cường vai trò an ninh ở Đông Nam Á.
Thứ ba, kết quả là một số quốc gia Đông Nam Á tỏ dấu hiệu về hành vi ‘cân bằng bên trong’ và ‘bên ngoài’ chống lại Trung Quốc. Với hậu thuẫn chủ yếu của Nga, Việt Nam đang phát triển các thành phần khả năng ‘chống tiếp cận/ từ chối khu vực’ (anti-access/area-denial – A2/AD) để bù vào việc tăng cường lực lượng biển trong khu vực của Trung Quốc. Sau nhiều thập kỉ lo lắng về vấn đề an ninh nội bộ, Philippines đang cố gắng xây dựng một vị thế ‘phòng thủ đáng tin tối thiểu’ chống Trung Quốc. Những nước khác rõ ràng đang tìm cách che chắn khả năng có căng thẳng nhiều hơn ở Biển Đông. Chẳng hạn, Singapore mời Mĩ triển khai bốn tàu chiến ven biển. Họ cũng có khả năng chọn máy bay Joint Strike Fighter làm máy bay chiến đấu kế tiếp của mình, điều này sẽ tăng cường việc hợp tác quân sự với Mĩ.
Thứ tư, các diễn giải cho rằng sự vắng mặt của Obama là bằng chứng cho sự thiếu chuyên tâm về tái cân bằng là có vấn đề. Có hai lập luận chính thường được đưa ra. Một là Washington đang quá bận rộn với Trung Đông và hai là Hoa Kì không còn tiền để tài trợ cho việc chuyển trục về châu Á – Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc. Lập luận đầu không nhận thấy được rằng Mĩ vẫn còn là một cường quốc toàn cầu với trách nhiệm toàn cầu – đơn giản là vì phát biểu gần đây của ông Obama trước Đại hội đồng LHQ đề cập quá ít về châu Á – Thái Bình Dương so với Trung Đông không có nghĩa là Mĩ đột nhiên thiếu quan tâm đối với châu Á.
Lập luận thứ hai cũng không thuyết phục. Mặc dù có sức ép lên ngân sách quốc phòng của Mĩ, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục chuyển các hệ thống quân sự quan trọng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hồi đầu tháng 10, các quan chức Mĩ đã thông báo rằng Hoa Kì sẽ triển khai máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đến Nhật Bản vào đầu năm 2014. Và vào năm 2017 thủy quân lục chiến sẽ bắt đầu triển khai F – 35B tới Nhật Bản, đánh dấu sự triển khai máy bay chiến đấu Joint Strike lần đầu bên ngoài nước Mĩ. Ngoài ra, thủy quân Lục chiến Mĩ đang xây dựng một căn cứ chỉ huy cao cấp mới trên đảo Palawan ở Philippines để giám sát Biển Đông. Đường băng trên đảo sẽ được nâng cấp để có thể phục vụ việc không vận chiến lược của Mĩ (và có khả năng cho máy bay chiến đấu). Nói cách khác, Philippines là bước mới nhất trong chiến lược của Mĩ để tăng cường sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, làm phức tạp đáng kể kế hoạch hoạt động quân sự của Trung Quốc.
Cuối cùng, các đồng minh của Mĩ có vẻ sẵn sàng gánh vác nhiều hơn để hậu thuẫn việc xoay trục của Mĩ. Úc là một ví dụ. Thủ tướng Abbott vừa công bố quyết định của Chính phủ Úc chia sẻ chi phí tài chính cho sự hiện diện tăng cường của thuỷ quân Lục chiến Mĩ ở Bắc Úc. Đồng thời, cách tiếp cận nồng nhiệt của ông với Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản – đồng minh châu Á quan trọng khác của Mĩ – tại hội nghị thượng đỉnh, bao gồm việc thừa nhận rằng Tokyo cần phải đóng vai trò an ninh khu vực tích cực hơn, đã làm ông nhận lãnh nhiều nhận xét gay gắt tại Bắc Kinh.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Úc, các đồng minh và đối tác Đông Nam Á của Mĩ hiện nay đang trong tiến trình chống Trung Quốc. Nhưng họ có một lợi ích cốt lõi trong việc duy trì sự hiện diện của Mĩ trong khu vực và có nhận thức sâu sắc về thời điểm bước vào vị trí. Trung Quốc còn quá xa mới tới chỗ làm suy sụp vị thế của Mĩ ở Đông Nam Á.
Benjamin Schreer là một nhà phân tích cấp cao tại Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI)

Cảnh báo về tài phiệt

BY CHRISTIAN CARYL
Foreign Policy (24/10/ 2013)

Những tay giàu có nhem nhúa đang trở thành những tên độc tài mới của thế kỉ 21 bằng cách nào.


Đầu tháng này, ngân hàng đầu tư tín dụng Thuỵ Sĩ (investment bank Credit Suisse) công bố khảo sát hàng năm về của cải toàn cầu. Báo cáo của ngân hàng đầy các phát hiện sáng tỏ, nhưngcó một phát hiện đã đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi. Phát hiện đó liên quan tới việc phân bố tài sản ở Nga, ở đó, như báo cáo lưu ý, một nhúm  chỉ 110 người sở hữu một tỉ lệ khó tin là 35 % toàn bộ của cải của đất nước này. Đồng thời 93,7 % người Nga có tài sản trị giá $ 10 000 hoặc ít hơn.

Như báo cáo này lưu ý, điều này làm cho Nga thành nước có sự chênh lệch về tài sản lớn nhất trên thế giới. Người Mĩ, đang ngày càng lo ngại về sự bất bình đẳng sâu thêm ở đất nước của mình, có thể tìm kiếm sự an ủi từ kết luận u ám này. Thậm chí trong hoàn cảnh hiện tại, sự giàu có ở Hoa Kì vẫn còn trải ra đồng đều hơn nhiều so với sự chênh lệch đó (như so sánh này cho thấy). Sự việc đã có thể tồi tệ hơn, đúng không?

Vâng, có thể như thế. Nhưng tôi thấy có ít lí do để hân hoan. Nga chỉ là trường hợp cực đoan nhất của một xu hướng toàn cầu có khả năng tiêu biểu cho một trong những mối đe dọa lớn nhất mà nền dân chủ phải đối mặt ngày hôm nay: sự lan rộng của nền chính trị đầu sỏ.

Vấn đề không phải chỉ là một số người trong thế giới ngày nay giàu có một cách hoang đường. Vấn đề là sự giàu có không cân xứng đó ngày càng đi cùng với quyền lực không cân xứng. Nga, một lần nữa, cho ta một ví dụ điển hình của sự nguy hiểm này. Quay trở lại những năm 1990, một nhúm các trùm kinh doanh đi đêm với giới chính trị xoay xở để trục lợi từ mối quan hệ thân cận với điện Kremlin của Boris Yeltsin bằng cách lợi dụng việc tư nhân hóa công nghiệp đồ trang sức của đất nước - trên tất cả là trên các tài nguyên dầu mỏ to lớn của nó. Những tay trùm này đã không ngần ngại khai thác sức mạnh kinh tế của mình cho các mục đích chính trị. Họ tài trợ cho Yeltsin tái cử tổng thống vào năm 1996, kiểm soát việc bổ nhiệm quan chức cấp bộ, và khống chế các chính sách của chính phủ. Không ngạc nhiên là những doanh nhân kiêm chính trị gia này đã nhanh chóng được mệnh danh là các "đầu sỏ chính trị" ("Orligarchy (Đầu sỏ)" là tiếng Hy Lạp chỉ "chính phủ của số ít.”)

Một người trong số họ, vừa mới mất, tay giảo hoạt Boris Berezovsky, đã đạo diễn một nhân viên KGB cũ trồi lên thành thủ tướng. Dù vậy, cuối cùng Vladimir Putin đã cho thấy sự biết ơn ít ỏi. Khi mà Putin trở nên vững vàng trên vị trí tổng thống, ông ta đã nhanh chóng thẳng tay cắt bỏ ảnh hưởng người bảo trợ xưa, buộc Berezvosky phải sống lưu vong. Putin cũng cắt giảm quyền lực của các ông trùm khác thời Yeltsin, (đáng để ý nhất là Mikhail Khodorkovsky, người mà hôm nay đánh dấu 10 năm ngồi tù trong một trại lao động), nhưng thay vào chỗ của họ ông ta đã dựng lên một nhóm các doanh nhân mới - nhiều người có quan hệ với các cơ quan an ninh Liên Xô cũ – được vận may nhờ vào ông ta. Một trong số họ là cựu nhân viên KGB tên Igor Sechin, người đứng đầu công ti dầu mỏ lớn nhất của đất nước, được một số người coi như là người có quyền lực mạnh thứ hai sau Putin. (Sechin là người bên trái trong các bức ảnh trên.)

Nhưng đây không phải là vấn đề duy nhất của Nga. Vì bây giờ đã trở nên rõ ràng, toàn cầu hóa và các lực lượng kinh tế mạnh mẽ mà nó tung ra đã trao sự giàu có và quyền lực chưa từng có cho một nhóm nhỏ nhoi chủ chốt mới. Gọi họ bằng tên gì tuỳ ý bạn: giai cấp siêu đẳng, bọn tài phiệt, giới "ưu tú toàn cầu." Cái mà họ minh họa là cách thức quan hệ giữa giàu có với quyền lực chính trị. Và đó là một vấn đề ngày càng gây phiền nhiễu cử tri nhiều nơi từ London tới Kuala Lumpur.

Đó là một thách thức mang nhiều hình thức khác nhau. Ở Trung Quốc, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản cầm quyền thường là con đường dễ dàng đi tới sự giàu có. Nhiều vụ bê bối chính trị hiện nay xoáy quanh những trò hề của đám “thái tự đảng” (con cháu của các quan chức cao cấp của đảng, những kẻ hiện thân sự pha trộn khác thường chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa tư bản bè phái của đất nước này) có nhiều ‘quan hệ’. Nhờ có việc đào bới đáng chú ý của các nhà báo dám làm trong những năm gần đây, chúng ta đã biết được một số điều đáng kinh ngạc về mức độ đặc quyền mà các đại gia đình của những người đáng chú ý như Chủ tịch Tập Cận Bình và cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Nhưng điều này hầu như không đến như là một bất ngờ. Khi bạn thấy rằng nước Cộng hòa nhân dân này do bảy uỷ viên Uỷ ban thường vụ Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản điều hành, bạn đang nói về một số lượng nhỏ nhoi các gia đình thực hiện việc kiểm soát không bị kiềm chế đối với một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong một bối cảnh như vậy, quyền lực chính trị và kinh tế củng cố lẫn nhau chỉ là điều tự nhiên.

Tất nhiên, tình hình ở Trung Quốc là kết quả của một chương trình tự do hóa kinh tế lèo lái bởi một nhóm chủ chốt độc đoán. Ở các nước đã phát triển ở phương Tây tình hình khác biệt hơn. Số lượng đấu thủ nhiều hơn, sự giàu có và ảnh hưởng chính trị được phân phối rộng ra hơn. Nhưng điều đó có lẽ là chút an ủi cho, chẳng hạn, người Mỹ vốn nổi lên như những kẻ thua thiệt từ thời kỳ vàng son cuối cùng của đất nước. Bình đẳng kinh tế ở Hoa Kỳ tăng đều đặn trong ba thập niên đầu của thời kỳ sau Thế chiến II, nhưng dậm chân dừng lại giữa tình trạng ngưng trệ và cạnh tranh quốc tế gia tăng trong những năm 1970. Như nhà kinh tế học Joseph Stiglitz lưu ý trong một bài xã luận gần đây:

“Năm ngoái, 1 % người Mĩ lớp trên cùng đã mang về 22 % thu nhập quốc gia; 0,1 % lớp trên cùng mang về 11 %. 90% toàn bộ lợi tức thu nhập từ năm 2009 đều đi vào 1 % lớp trên cùng. Số liệu điều tra dân số công bố gần đây cho thấy thu nhập trung bình ở Mỹ đã không nhúc nhích trong gần một phần tư thế kỷ.”

Đồng thời, sự thả lỏng bất thường của luật pháp Hoa Kì về vận động hành lang và tài trợ cho các chiến dịch vận động đã cho phép giới thượng lưu giàu có nắm được sự khống chế to lớn đối với quy trình chính trị đó. Cho đến bây giờ, bất cứ ai có theo dõi nền chính trị Mĩ đều đã nghe những câu chuyện về các khoản tiền mặt to lớn do các trùm kinh doanh bảo thủ chi ra như Koch Brothers, thường ít được thảo luận hơn có lẽ, là các đảng viên Dân chủ giàu có, chẳng hạn như George Soros hay Tom Steyer, họ vui lòng tận dụng sự giàu có của họ để gây ảnh hưởng lên chính sách. Nhưng thậm chí còn ít nhìn thấy được là những công ty lớn và các hiệp hội công nghiệp có thể mua các nhà làm luật và sửa luật để nâng lằn vạch dưới cùng (giảm bỏ hạn chế) của chính họ lên.

Một nghiên cứu khoa học gần đây tính ra rằng 40 % các đóng góp cho vận động chính trị trong năm 2012 đến từ một phần trăm của một phần trăm hộ gia đình Mĩ. Con số này có thể phản ánh nhận thức ngày càng tăng của nhóm chủ chốt kinh tế mới về quyền lực chính trị của chính họ - không kể đến sự thờ ơ trong các thành phần khác của dân số, những người cảm thấy ngày càng tách rời khỏi sự tham gia có ý nghĩa. Sự xói mòn của các trung tâm quyền lực thay thế, chẳng hạn như các công đoàn, chắc chắn góp phần vào một cảm giác hoài nghi và buông xuôi tăng lên. Tất cả đều có tác dụng làm suy yếu tính hứa hẹn của hệ thống dân chủ của Mĩ. (Trong bối cảnh đó, không có gì lạ khi Tòa án Tối cao Hoa Kì lại một lần nữa cân nhắc những vấn đề về giới hạn đối với những đóng góp cá nhân cho các cuộc vận động chính trị.)

Kết quả là, Mĩ hiện đang trãi qua một cuộc thảo luận đáng chú ý về những nguyên nhân của sự bất bình đẳng mới này và những hậu quả chính trị của nó. Các tác giả từ George Packer tới Tyler Cowen đang khuấy động cuộc tranh luận sôi nổi về sự suy sụp nhận thức được về khế ước xã hội Mĩ. Cuốn sách mới của nhà kinh tế Angus Deaton, The Great Escape (xem đoạn trích của DemLab ở đây), bao gồm một đoạn trích đáng nhớ từ luật sư Louis Brandeis : "Nếu dân chủ trở thành chế độ tài phiệt, những người không giàu sẽ bị tước quyền bầu cử một cách hiệu quả."

Chúng ta có thể ngăn chặn xu hướng này không? Một vài người - như Cowen, tin rằng sự bất bình đẳng hiện nay phần lớn là việc vận hành của sự thay đổi công nghệ - thì hoài nghi. Những người khác nhấn mạnh rằng chúng ta có thể chống lại sự trôi dạt về phía chính phủ bởi nhóm nhỏ bằng những chính sách thông minh được thiết kế để san lấp sân chơi ngang bằng – trước hết trong giáo dục, cơ sở hạ tầng, và chăm sóc sức khỏe. Các biện pháp để hạn chế vai trò của đồng tiền trong chính trị có thể sẽ cũng không là một ý tưởng tồi (giả định chúng ta có thể tìm thấy một số biện pháp thực sự có tác động). Đối với những người vẫn tin vào tính ưu việt của thị trường, gói biện pháp này cũng có thể bao gồm các phương cách nhằm thúc đẩy cạnh tranh thực sự thay vào chỗ của phúc lợi công ti hiện nay cho các siêu công ti gắn kết với chính trị.

Điều này chắc chắn không có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa tư bản. Như các nhà kinh tế phát triển chỉ ra, toàn cầu hóa đã mang lại sự thịnh vượng tương đối tới nhiều người trên khắp thế giới, những người trước đây thậm chí không thể mơ tới điều đó. (Cho một khởi đầu, hãy nghĩ tới tất cả những nông dân Trung Quốc, những người mà bây giờ có thể lo đủ ba bữa ăn một ngày - điều không tưởng tượng nổi trước đây). Sức khỏe và các chỉ số phát triển tổng thể đã được cải thiện đáng kể trong 50 năm qua. Nhưng không điều nào trong số này xoá bỏ sự cần thiết phải đảm bảo rằng các lợi ích khác thường tích lũy cho các siêu sao ở lớp trên cùng không dẫn đến việc tướt quyền bầu cử phần còn lại trong chúng ta. Nếu trái đi, tương lai có vẻ tối tăm.

Nhưng những người giàu có thực sự sẽ từ bỏ quyền lực của họ có được một cách dễ dàng chăng? Mặc dù Vụ biểu tình chiếm Wall Street nhắm vào nhóm 1 % với đầy ý chí và nhiệt thành, tác động chính trị thực sự của nó được cho là gần như bằng không. Đã đến lúc các phong trào chính trị mới có thể kết hợp sức mạnh của các cá nhân và tập hợp các đáp ứng gắn kết nhau đối với sự tập trung ảnh hưởng ngày càng tăng mạnh bởi một số ít ở lớp trên cùng. Và thậm chí có cơ hội một số các tài phiệt giác ngộ hơn sẽ đưa ra những ý tưởng để nâng cao vị thế cho đa số. Bill Gates ở đâu khi bạn cần tới ông ta?