Saturday, August 27, 2016

Phán quyết theo Luật Biển làm lộ chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm của Trung Quốc

Phán quyết theo Luật Biển làm lộ chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm của Trung Quốc

Ruling Reveals Dangerous Chinese Nationalism

Dương Danh Huy
National Interest (25/8/2016)


Phán quyết gần đây của Toà trọng tài theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) cho vụ Philippines kiện Trung Quốc đã được nhiều chính phủ đang âu lo về căng thẳng gia tăng ở biển Đông hoan nghênh. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, nó đã kích động phản đối tràn đầy.

Như dự đoán, chính phủ Trung Quốc tái khẳng định vị thế kiên định không công nhận thẩm quyền của Tòa và không chấp nhận phán quyết. Quân đội TQ bắt đầu trò chơi chiến tranh mới và công bố tuần tra trên không ở biển Đông. Một đô đốc cảnh báo Hoa Kì rằng hoạt động tư do đi lai của Mĩ có thể "thành ra tai họa", trong khi một đô đốc khác tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ dừng lại nửa chừng việc xây dựng đầy tranh cãi của họ trên quần đảo Trường Sa, và nói thêm rằng "Hải quân Trung Quốc sẵn sàng phản ứng với bất kì hành vi xâm phạm quyền hoặc gây hấn". "Quân đội Giải phóng Nhân dân đã sẵn sàng," một nguồn tin có quan hệ với quân đội Trung Quốc nói với Reuters. "Chúng tôi sẽ tiến tới đánh cho họ dập mũi như Đặng Tiểu Bình đã làm với Việt Nam hồi năm 1979."

Như thể không chịu thua kém về nhiệt tình yêu nước, tập đoàn hạt nhân quốc gia Trung Quốc tuyên bố sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở biển Đông, giải thích rằng "việc xây dựng trạm điện hạt nhân biển sẽ được sử dụng giúp vào việc kiểm soát hiệu quả của Trung Quốc ở biển Đông ".

Theo tường thuật, WeChat và các microblog được đa số dân Trung Quốc sử dụng hàng ngày đã bị tràn ngập với hai hình ảnh. Một là một bức thư kêu gọi các cựu chiến binh đăng kí nhập ngũ lại, với những ý kiến tương tự nhau, "nếu có chiến tranh thì tôi sẽ trở lại mặt trận theo lệnh gọi." Hình ảnh thứ hai là bản đồ lãnh thổ của Trung Quốc có vẽ đường chín đoạn, với chú thích rằng "Đây là lãnh thổ Trung Quốc, không thể đánh mất dù một tấc đất."

Trang đầu tờ Nhân dân nhật báo tuyên bố "Chúng tôi không đòi một tấc đất nào không thuộc về chúng tôi, nhưng chúng tôi sẽ không từ bỏ mảnh đất nào vốn là của chúng tôi".

Nhiều người Trung Quốc cho rằng vụ trọng tài này là một âm mưu của Mĩ, Nhật (4 trong 5 thẩm phán do Chủ tịch Toà án Quốc tế về Luật Biển lúc đó là người Nhật bổ nhiệm) và Philippines cướp của Trung Quốc lãnh thổ có chủ quyền cũng như "quyền lịch sử" đối với 80% biển Đông. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đã đi xa tới mức buộc tội các thẩm phán là đã bị tiền bạc làm lung lạc.

Tuy nhiên, khi đọc kỹ phán quyết này thì thấy rằng phần lớn ủa lời kêu ca này là sai lệch.


Không phải là một phán quyết về lãnh thổ

Thứ nhất, về vấn đề lãnh thổ, thật ra Tòa đã không đưa ra bất cứ tuyên bố nào thiệt hại dù chỉ một tấc lãnh thổ của Trung Quốc, hay lãnh thổ thuộc bất kì quốc gia khác về mặt đó, điều này là phù hợp với sự kiện là toà không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Việc quy kết mà Toà thực hiện cho Philippines liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lí, một khái niệm được định nghĩa trong UNCLOS khác với khái niệm lãnh thổ. Mặc dù Toà cũng đưa ra các quyết định đối với các rạn đá và các bãi đá nằm dưới mặt nước khi triều cao, trong luật pháp quốc tế đó không phải là "đảo" và do đó không phải lãnh thổ mà quốc gia nào có thể đòi chủ quyền đối với nó. Nói vắn tắt, Tòa không đụngchạm vào bất kì phần nào của trái đất mà về mặt luật pháp có thể là lãnh thổ của một nước nào đó. Tất cả các bên tranh chấp, cụ thể là Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam, vẫn có thể tranh nhau tất cả các vùng lãnh thổ đảo mà họ có thể đã tranh  nhau trước khi có vụ kiện này.

Điều đáng chú ý là Malaysia và Việt Nam, hai nước cũng yêu sách chủ quyền toàn bộ hoặc một phần quần đảo Trường Sa, đều không phản đối hay phàn nàn rằng Tòa án đã bằng cách nào đó làm điều sai trái cho chủ quyền lãnh thổ của họ.

Thế thì tại sao Trung Quốc lại phản đối về chủ quyền lãnh thổ? Lí do đầu tiên là các yêu sách họ đưa ra hoàn toàn trái ngược với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, cụ thể là các yêu sách đối với các bộ phận của biển mà không một quốc gia có thể tuyên bố chủ quyền hợp pháp. Lí do thứ hai là chính phủ TQ đang cố xuyên tạc phán quyết, vốn là về EEZ, thành về chủ quyền lãnh thổ - điều này là để bênh vực quan điểm của họ rằng Tòa không có thẩm quyền phán quyết đối với vụ kiện cũng như để thúc đẩy tình cảm dân tộc, lợi dụng niềm tin tràn lan rằng người nước ngoài đã đánh cắp lãnh thổ Trung Quốc lúc nước này còn yếu.


Phán quyết là về EEZ và quyền lịch sử

Vậy chính xác là Toà quyết định điều gì về EEZ? Hai điều. Thứ nhất, khi một nước kí kết UNCLOS thì việc đó làm triệt tiêu mọi yêu sách về quyền lịch sử của nước đó trong EEZ của nước khác. Đáng chú ý là sự triệt tiêu này không bao gồm các yêu sách chủ quyền lãnh thổ đảo và các vùng biển về thuộc về chúng. Thứ hai, không có vùng lãnh thổ nào ở quần đảo Trường Sa thoả các đòi hỏi của UNCLOS để được hưởng EEZ. Những quyết định này áp dụng cho cả Philippines lẫn Trung Quốc.

Đối với quyết định của Tòa án về quyền lịch sử trong vùng EEZ của các nước khác, tình cảm dân tộc bùng phát của Trung Quốc dường như không nắm được sự kiện rằng quyết định của Toà thật ra phù hợp với vị thế của Trung Quốc về đường chín đoạn từ khi đường này được vẽ lần đầu cho đến ít nhất một vài thập kỉ trước.

Dù một số người có thể tin là Trung Quốc có "quyền lịch sử" đối với vùng biển được bao bọc trong đường đó, điều đó chỉ đơn giản là lịch sử nguỵ tạo, mới được nguỵ tạo về điều đó. Lúc đương nhiệm, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) Mã Anh Cử (Ma Ying-jeou) đã tuyên bố rằng khi chính phủ Quốc Dân Đảng của Trung Hoa lần đầu chấp nhận đường đó vào năm 1947, đường đó có ý mô tả một yêu sách đối với các đảo mà nó bao quanh, chứ không phải yêu sách về quyền đối với vùng biển và đáy biển. Sau đó Trung Quốc giữ nguyên lập trường ban đầu này qua việc thừa nhận công ước Vienna về lãnh hải và thềm lục địa trong thập niên 1950. Đáng nói là trong các thập kỉ 1960 và 1970, khi Indonesia, Malaysia, Philippines và Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền với các phần khác nhau của thềm lục địa trong phần phía Nam của biển Đông, những phần kéo dài tới ngay bên trong đường chín đoạn, cả Trung Quốc lẫn THDQ đều không phản đối.

Suốt các cuộc đàm phán UNCLOS III kết thúc vào năm 1982, Trung Quốc là nướcủng hộ mạnh mẽ chế độ đặc quyền kinh tế 200 hải lí cho các quốc gia ven biển, và họ chưa bao giờ đưa ra khái niệm về quyền lịch sử đối với các vùng biển và đáy biển bên trong đường chín đoạn. Một số học giả Trung Quốc nhận ra điều này và cho rằng vào lúc đó, Trung Quốc quên mất về quyền lịch sử. Biết rằng vào lúc đưa ra đường chín đoạn không phải là một yêu sách về quyền đối với khoảng biển, và cho đến các cuộc đàm phán UNCLOS III Trung Quốccũng chưa bao giờ khẳng định quyền đó, sẽ chính xác hơn khi nói rằng Trung Quốc vẫn chưa sáng chế ra các quyền này hơn đã quên mất chúng đi.

Mãi cho đến năm 1992, Trung Quốc mới đưa ra yêu sách đầu tiên đối với thềm lục địa ở phần phía Nam của biển Đông, khi họ kí hợp đồng ủy quyền cho Crestone, một công ty Mĩ, khai thác dầu trong vùng bãi Tư Chính (Vanguard Bank). Như vậy năm 1992 là năm mà khái niệm về "quyền lịch sử" của Trung Quốc đối với đáy biển bên trong đường chín đoạn được hình thành lần đầu. Bằng chứng có ý chứng tỏ "lịch sử có từ thời xa xưa" về những quyền đó đã được nguỵ tạo sau sự thai nghén năm 1992 này.

Nói một cách đơn giản, tình cảm dân tộc chủ nghĩa tràn trề cho "quyền lịch sử" đối với khoảng biển bên trong đường chín đoạn là kết quả của niềm tin phổ biến nhưng sai lầm rằng Trung Quốc đã yêu sách và thực thi các quyền đó ít nhất là từ năm 1947.

Ngoài sự việc là lịch sử nguỵ tạo không có sức nặng pháp lí, một khi mà một nước đã tự nguyện kí kết một hiệp ước với hầu hết phần còn lại của thế giới, và đã được hưởng lợi từ hiệp ước đó thì nước đó không thể xé bỏ nó và sáng chế ra cái gì khác mà mình họ tự nghĩ là tương xứng hơn với sự phát triển hải quân của mình.

Với quan điểm của Tòa về "quyền lịch sử", quyết định của Toà rằng không có thể địa lí nào của quần đảo Trường Sa được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế là rất trọng yếu. Nếu không có quyết định này, ngay cả với lập luận về "quyền lịch sử" bị bác bỏ, Trung Quốc sẽ vẫn có thể vẫn giữ được một vỏ bọc về tính hợp pháp cho các yêu sách biển quá mức của họ bằng cách lập luận rằng quần đảo Trường Sa thuộc về họ và quần đảo này được hưởng EEZ 200 hải lí. Trớ trêu là tình cảm dân tộc tràn đầy này chỉ đổ vào "lãnh thổ" và "lịch sử", nhưng không đếm xỉa chút nào tới quyết định này .

Luật pháp quốc tế ở ghế sau

Điều thú vị là rất hiếm học giả của đất nước đông dân nhất thế giới này đưa ra công chúng Trung Quốc một cách nhìn khác. Khi đường lối chính thức của Bắc Kinh là rất nghiêm ngặt thì học giả nào nói khác đi sẽ là tự sát về chuyên môn. Do vậy, hầu hết phân tích của Trung Quốc chỉ lặp lại những kể lể chính thức và thổi bùng thêm ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc.

Khi một đất nước theo đuổi hết sức cứng nhắc và hoàn toàn theo phiên bản luật quốc tế của riêng mình thì việc họ tuyên bố rằng vị thế và hành vi của mình phù hợp với luật pháp quốc tế theo cách chung chỉ là nói suông. Khi xét cùng với sóng triều quyền lực và chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy của Trung Quốc, quả là một điều đáng lo là ngay cả các luật sư quốc tế của Trung Quốc cũng tỏ ra coi thường phán quyết của tòa trọng tài quốc tế.

Hiện giờ, chủ nghĩa dân tộc đang ngồi ở vị trí cầm lái quyền lực của Trung Quốc và không có dấu hiệu nào trong phản ứng của nước này đối với vụ kiện cho thấy rằng việc sử dụng quyền lực đó để theo đuổi lợi ích quốc gia của họ, đặc biệt không chỉ ở biển Đông mà còn ở những nơi khác, sẽ được kiềm chế bởi một ý thức công bằng rút ra từ luật pháp quốc tế, hoặc qua việc tôn trọng các chuẩn mực quốc tế.


Dương Danh Huy là một nghiên cứu viên cao cấp không thường trú của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết của ông xuất hiện trên báo chí chính thức tại Việt Nam và Philippines, trên trang mạng của BBC, CogitASIA, Yale Global, RSIS Commentaries, The Diplomat, East Asian Forum và các trang mạng khác.

No comments: