Pages

Tuesday, May 17, 2016

Thực trạng chiếm đóng của các bên ở Trường Sa

Biển Đông: Mỗi bên yêu sách thứ gì ở Trường Sa?

(South China Sea: Who Claims What in the Spratlys?)

Một cái nhìn sâu hơn về một câu hỏi cơ bản nhưng chưa hiểu rõ.

Alexander L. Vuving (Vũ Hồng Lâm)
(Diplomat 6-5-16)


Diễn ngôn về tranh chấp Biển Đông dễ hiểu có chứa đầy cảm xúc. Chính đó có thể là một lí do vì sao cuộc tranh luận về vấn đề này nên được dựa trên các điều thật. Và, như Bill Hayton đã ghi nhận, “bằng chứng không đáng tin cậy đang che phủ diễn ngôn quốc tế về tranh chấp Biển Đông.” Thật vậy, đôi khi nó giống như một bức màn dày đang che khuất sự thật về biển Đông.

Chẳng hạn, xét lập luận cho rằng Trung Quốc còn xa mới là kẻ gây hấn ở biển Đông, họ thật ra chỉ đơn thuần phản ứng lại các hành động khiêu khích đơn phương của các nước khác như Việt Nam. Kết luận này dựa trên một số bằng chứng có vấn đề, trong đó có ý kiến cho rằng Việt Nam đã “tăng gấp đôi vị trí chiếm giữ” ở biển Đông trong vòng  20 năm qua. Ngay cả khi giả định rằng Việt Nam chiếm giữ 24 thể địa lí vào năm 1996 (dữ liệu thực tế mà từ đó bản đồ thường được vẽ ra cho hướng lập luận này thật ra chỉ xác định được 22), ý tưởng rằng đã có sự gia tăng gần như gấp đôi là gây hiểu sai. Cội nguồn cho lời tố cáo này - điều trần của một quan chức quốc phòng cao cấp Hoa Kì trước quốc hội năm 2015 – thật ra chỉ xác định có 48 tiền đồn ở những thể địa lí do Việt Nam chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa, chứ không phải là 48 thể địa lí. Việc sử dụng khoảng thời gian 20 năm cũng không kém phần định hướng sai bởi vì đã bỏ qua việc Trung Quốc chiếm lấy Đá Vành Khăn (Mischief Reed) cách đây 21 năm.

Nhưng nói chung, vấn đề là vẫn không có sự rõ ràng thật sự về việc nước nào sở hữu cái gì trong quần đảo Trường Sa. Không phải là không phổ biến để để tìm thấy các bài viết - và đôi khi thậm chí là các tài liệu, bản đồ và dữ liệu công bố công khai - có chứa thông tin không chính xác, mâu thuẫn và đôi khi không đáng tin cậy. Bài viết này cố gắng giải quyết vấn đề đó bằng cách nhìn xem mỗi bên thật sự chiếm những cái gì trong quần đảo Trường Sa. Trong quá trình tìm hiểu câu hỏi này, tôi đã tham khảo nhiều nguồn, phần lớn là nguồn chính (primary), và phỏng vấn một số người am tường vấn đề. Các thông tin thu được cũng đã được kiểm tra cẩn thận.

Việt Nam

Việt Nam hiện đang chiếm 21 thể địa lí trong quần đảo Trường Sa, với thể mới nhất chiếm lấy một vài ngày sau cuộc đụng độ đẫm máu với Trung Quốc vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 tại đá Gạc Ma (Johnson South Reef). Một danh sách đầy đủ các thể địa lí với tên và tọa độ đã được công bố trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của chính phủ Việt Nam, số ra ngày 22 tháng4 năm 1988. Đó là:

1.         Song Tử Tây (Southwest Cay) ,
2.         Đá Nam (South Reef),
3.         Núi Thị/ Đá Thi (Petley Reef),
4.         Sơn Ca (Sand Cay),
5.         Nam Yết (Nanyit Island),
6.         Đá Lớn (Discovery Great Reef),
7.         Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island),
8.         Cô Lin (Collins Reef),
9.         Len Đao (Lansdowne Reef),
10.     Đảo Sinh Tôn Đông (Sin Cowe East Island),
11.     Đá Lát (Ladd Reef),
12.     Đảo Trường Sa hay Trường Sa Lớn (Spratley Island),
13.     Đá Tây (West Reef),
14.     Trường Sa Đông (Central Reef),
15.     Đá Đông (East Reef),
16.     Phan Vinh (Pearson Reef),
17.     Tốc Tan (Allison Reef),
18.     Núi Le (Cornwallis South Reef),
19.     Tiên Nữ (Pigeon / Tennent Reef),
20.     Thuyên Chài (Barque Canada Reef),
21.     An Bang (Amboyna Cay).

Trong một bản đồ (từ đây về sau gọi là bản đồ APMSS) đính kèm Chiến lược an ninh hàng hải châu Á-Thái Bình Dương (Asia-Pacific Maritime Security Strategy) năm 2015, Bộ Quốc phòng Hoa Kì của (DoD) đã chi ra 34 tiền đồn trên 21 thể địa lí. Một “tiền đồn” có thể lớn bằng một đảo hay nhỏ như một tháp canh. Chẳng hạn, đá Đông được tính ba lần do thể địa lí này chưa được phát triển thành một đảo nhân tạo duy nhất nhưng vẫn được đánh dấu tại ba địa điểm bằng bốn nhà hộp hình bát giác mà mỗi cái chiếm vài trăm mét vuông.

Việt Nam cũng có một hệ thống đếm tương tự, nhưng chỉ xác định có 33 tiền đồn (điểm đóng quân hay điểm đảo). Tại sao lại có sự khác biệt? Một tiền đồn mà Bộ Quốc phòng đếm dư thật ra là một đèn biển trên đá Tiên Nữ (Tennent Reef). Việt Nam không xem nó như là một tiền đồn vì không có quân đóng ở đó - nó do một công ty dân sự thuộc Bộ Giao thông điều hành. Hiện chưa rõ ngọn đèn biển này được xây dựng lúc nào, nhưng tất cả 33 tiền đồn Việt Nam khác đã được xây dựng trước năm 1989.

Số tiền đồn trên bản đồ APMSS cũng nhiều hơn số mà Việt Nam có ở quần đảo Trường Sa là 14 cái. So sánh bản đồ này với những gì tồn tại trên mặt đất - hoặc, nếu bạn thích, trên biển - chúng ta có thể thấy rằng 14 cái này chỉ kiến trúc quan sát (nhà giàn) mà Việt Nam đang điều hành trên 6 bãi ngầm nằm ở phía Tây Nam quần đảo Trường Sa. Việt Nam bắt đầu dựng các cấu trúc vĩnh viễn trên bãi Tư Chính (Vanguard Bank), bãi Vũng Mây (Rifleman Bank), và bãi Phúc Tần (Prince of Wales Bank) vào năm 1989, bãi Phúc Nguyên (Prince Consort Bank) năm 1990, và trên Bãi Quế Đường (Grainger Bank) cùng bãi Huyền Trân (Alexandra Bank) vào năm 1991. Những mặt sàn này rộng từ 100 và 250 mét vuông, và dựng trên các bãi có độ sâu từ 7 và 25 mét dưới mặt nước biển.

Các bãi ngầm này có là một bộ phận của quần đảo Trường Sa hay không là một vấn đề gây tranh cãi. Bản đồ của Trung Quốc gom các bãi đó vào quần đảo Trường Sa coi chúng như thể là các dạng địa hình nằm trên mặt nước. Do đó, con số của Trung Quốc về những thể địa lí Việt Nam chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa thường chạy từ 27 đến 30. Việt Nam lập luận rằng do các bãi ngầm này nằm sâu dưới nước và trong phạm vi 200 hải lí (nm) từ đường cơ sở của Việt Nam nên chúng thuộc về thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam theo quy định tại Điều 76 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Theo UNCLOS, các thể địa lí ngầm không thể đòi sở hữu bằng cách chiếm đóng hay cách khác.

Có 11 trong số các thể địa lí do Việt Nam trấn giữ tại quần đảo Trường Sa có phần tự nhiên dài hơn 100 mét nằm trên thủy triều cao. Đó là Song Tử Tây, đá Nam, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Len Đao, Trường Sa, Trường Sa Đông, Phan Vinh, và An Bang. Bảy thể địa lí khác – Núi Thị, đá Lớn, Cô Lin, đá Tây, đá Đông, đá Tiên Nữ, và đá Thuyền Chài – được biết có một số phần đó nằm trên mặt nước khi triều cao trong điều kiện tự nhiên. Những thể địa lí này có thể có đủ điều kiện là “đảo” hay “đá” và có thể tạo ra lãnh hải theo UNCLOS. Ba thể địa lí – đá Lát, Tốc Tan, và Núi Le  - có thể chỉ ở trên mặt nước khi triều thấp. theo ngôn ngữ của UNCLOS, chúng có thể được gọi là các “bãi triều thấp”, không được hưởng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, hay thềm lục địa.

Philippines

Truyền thông Philippines thường nêu có 9 hoặc 10 thể địa lí do Philippines chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa. Thể địa lí thứ mười là đá Cá Nhám (Irving Reef, tiếng Philippines là Balagtas), nằm giữa bãi Loại Ta (Loaita Bank) và Bến Lạc (West York Island). Không có công trình kiến trúc nào trên rạn san hô này, nhưng có các nguồn tin chưa được xác minh cho biết rằng các tàu hải quân Philippines thay phiên nhau canh gác thể địa lí này. Nếu điều này là đúng, tình trạng của đá Cá Nhám cũng tương tự như một số thể địa lí khác được các tàu Trung Quốc và Việt Nam canh chừng, nhưng vẫn còn bỏ trống.

Vớiì điều này, 9 thể địa lí do Philippines chiếm giữ ở quần đảo Trường Sa là:

1.      Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay, tiếng Philippines: Parola),
2.      Đảo Thị Tứ (Thitu Island, Pag-asa),
3.      Loại Ta Tây (Loaita Cay, Panata),
4.      Đảo Loại Ta (Loaita Island, Kota),
5.      Đảo Bến Lạc (West York Island, Likas),
6.      Đảo Bình Nguyên (Flat Island, Patag),
7.      Đảo Vĩnh Viễn (Nanshan Island, Lawak),
8.      Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal, Ayungin),
9.      Đá Công Đo (Commodore Reef, Rizal).

Danh sách này không ăn khớp với danh sách phổ biến hơn trong những thể địa lí do Philippines chiếm về vị trí của Panata. Hầu hết các nguồn Philippines đều chuyển tên tiếng Anh của Panata là Lankiam Cay (đá An Nhơn), một cồn cát nhỏ nằm cách đảo Loại Ta 8 hải lí về phía đông-đông bắc. Hầu hết các tài liệu quốc tế cũng liệt kê đá An Nhơn và đảo Loại Ta là hai thể địa lí do Philippines chiếm đóng trong bãi Loại Ta. Nhưng bản đồ APMSS không cho thấy có tiền đồn nào tại đá An Nhơn mà lại định vị tiền đồn thứ hai của Philippines trong bãi Loại Ta tại một rạn san hô không xác định ở phía tây bắc của đảo Loại Ta. Một vài nguồn tin Trung Quốc và Việt Nam xác định thể địa lí này do Philippines chiếm như Loaita Nan. Tuy nhiên, tọa độ thường liên kết với Loại Ta Nam (10°42,5' N, 114°19,5' E) lại chỉ rạn san hô tạo thành rìa phía tây của bãi Loại Ta mà từ các hình ảnh vệ tinh của Google Maps không thấy có công trình kiến trúc nào ở đó. Đồng thời, các kiến trúc nhỏ có thể nhìn thấy trên Loại Ta Tây (10° 43,699' N, 114° 21,131' E), mà có thể được nghĩ như là một phần của Loai Ta Nam nhưng thực sự nằm phía đông qua một kênh sâu 7 mét. Loai Ta Tây cách đảo Loại Ta 5,5 hải lí về phía tây bắc.

Từ năm 1970 đến năm 1978, Philippines nhảy vào chiếm 7 thể địa lí ở quần đảo Trường Sa, với binh lính đóng quân trên 5 đảo. Đảo Bình Nguyên (Flat Island), nằm khoảng 6 nm phía bắc của đảo Vĩnh Viễn (Nanshan Island), hình như được kiểm soát bởi một đơn vị trú đóng tại căn cứ Vĩnh Viễn đến năm 2011, khi một số kiến trúc giống hình sao biển được xây dựng để đảm nhận việc hiện diện thường trực hơn. Một phim tài liệu được một mạng lưới truyền hình địa phương sản xuất năm 2004 cho biết rằng chỉ có 4 binh sĩ đang canh gác bảo vệ cả hai thể địa lí này từ nơi tạm trú của họ trên đảo Vĩnh Viễn. Một cách thức tương tự có vẻ cũng được áp dụng cho các thể địa lí trong bãi Loại Ta , với đảo Loại Ta  dùng như là căn cứ cho việc trú đóng cho đến khi có cơ sở được dựng trên Loại Ta Tây. Một số nguồn tin cho biết đá An Nhơn trước kia có một bãi biển hơn 5 héc ta, nhưng sóng lớn do một cơn bão mang tới đã quét sạch lớp cát trên mặt đảo chỉ còn phần nền calcarenite có thể nhìn thấy được khi triều thấp.

Ngày Philippines bắt đầu chiếm đóng đá Công Đo vẫn chưa rõ, quân đội Philippines đã đổ bộ lên rạn đá này vào tháng 8 năm 1980 và phá bỏ một bia chủ quyền do Malaysia dựng vài tháng trước đó, nhưng không rõ họ ở lại hay rời đi sau cuộc đổ bộ đó. Một báo cáo cho rằng họ bỏ đi từ năm 1986, nhưng hiện có một phân đội đang đóng ở đó.

Năm 1999, Philippines chiếm đóng Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) bằng cách cho tàu chở tăng đổ bộ BRP Sierra Madre chạy càng lên bãi và sử dụng nó như một nơi trú ẩn cho một đơn vị nhỏ. Đáng chú ý là Lầu Năm Góc không tính trạm đóng quân của Philippines trên Bãi Cỏ Mây như một tiền đồn, mặc dù cách nhìn trái ngược vẫn phổ biến ở Philippines. Bãi cạn này này cũng chỉ là một bãi triều thấp trong số các thể địa lí do Philippines chiếm đóng. Tất cả 8 thể địa lí còn lại đều nhìn thấy ở trên mặt nước khi triều cao.

Đài Loan

Đảo Ba Bình (Itu Aba Island, tiếng Trung : 太平 Thái Bình đảo) là thể địa lí duy nhất do Đài Loan  chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa. Đó cũng là thể địa lí tự nhiên lớn nhất trong quần đảo này. Đài Loan đôi khi được cho là giữ 2 thể địa lí ở đó. Điều này có thể được suy ra từ các báo cáo về việc Đài Loan dựng các kiến trúc (năm 1995 và 2004) và các quan chức của họ đổ bộ lên bãi Ban Than (năm 2003 và năm 2012). Tuy nhiên, mô tả tốt nhất về tình trạng hiện tại của Bàn Than là “bỏ  trống”. Bàn Than có một bãi biển dài hơn 100 mét, nằm cách Ba Bình khoảng khoảng 2,5 hải lí và cách đảo Sơn Ca Do Việt Nam đang đóng khoảng 4 hải lí. Lầu Năm Góc xác định không có tiền đồn nào trên Bàn Than, và không nhì ra có kiến trúc nào trong các ảnh vệ tinh gần đây cũng như ảnh của các rạn đá này. Nguồn tin am tường tại chỗ cho tôi biết rằng binh lính  Đài Loan lẫn Việt Nam thỉnh thoảng dựng vật liệu trên Ban Than và sử dụng chúng như là các bia cho việc thực tập bắn đạn thật.

Trung Quốc

Ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã chiếm 6 thể địa lí từ năm 1988 và đá Vành Khăn (Mischief Reef) từ năm 1995. Bảy thể địa lí Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa là:

1.      Đá Xu Bi (Subi Reef, tiếng Trung : Zhubi Jiao: Chữ Bích Tiêu),
2.      Đá Ga Ven (Gaven Reef, 南薰 Nanxun Jiao: Nam Huân tiêu),
3.      Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef 东门 Dongmen Jiao: Đông Môn tiêu),
4.      Đá  Gạc Ma (Johnson South Reef, Chigua Jiao: Xích Qua tiêu),
5.      Đá Chữ Thập(Fiery Cross Reef, Yongshu Jiao: Vĩnh Thử tiêu),
6.      Đá Châu Viên (Cuarteron Reef, 华阳 Huayang Jiao: Hoa Dương tiêu),
7.      Đá  Vành Khăn (Mischief Reef, Meiji Jiao: Mĩ Tế tiêu).

Tháng năm 2015, khi Lầu Năm Góc cho biết Trung Quốc có 8 tiền đồn tại quần đảo Trường Sa, một số người nghĩ rằng tiền đồn thứ tám là đá Én Đất (Eldad Reef). Nhưng bản đồ APMSS phát hành ba tháng sau đó cho thấy chỉ trên Vành Khăn thôi đã có hai tiền đồn còn trên Én Đất không tiền đồn nào. Đây là một thực tế vốn thường bị bỏ qua.

Ngoài ra, một số tường thuật đã xác định nhầm một vài thể địa lí đã bị Trung Quốc chiếm đóng như đá Én Đất (Eldad Reef), đá Ba Đầu (Whitson Reef), đá  Lát( Ladd Reef), và đá Ken Nan (McKennan Reef). Ví dụ, hai bản đồ khá phổ biến của ReutersAFP năm 2015 vẫn phản ánh các thông tin không chính xác về đá Én Đất và đá An Nhơn. Trạng thái không đúng của Én Đất, Ba Đầu, và Lát có khả năng được suy ra từ các tường thuật về việc Việt Nam phản đối việc quân đội Trung Quốc đổ bộ lên đá Én Đất năm 1990, đá Ba Đầu tháng 3 năm 1992 và đá Lạc tháng 7 năm 1992. Đá Ba Đầu được xác định là tên tiếng Việt của Whitson Reef, nhưng đá Lạc bị nhầm tưởng là đá Lát (Ladd Reef) vốn đã do Việt Nam thực tế chiếm giữ. Thật ra, đá Lạc là tên tiếng Việt cho Gaven South Reef (tiếngTrung: 小南薰礁 Xiǎo Nánxūn jiāo: tiểu Nam Huân tiêu), một bãi triều thấp độ cách đá Ga Ven 2 hải lí.

Bản đồ APMSS cho thấy không có tiền đồn của Trung Quốc đóng trên bất kì rạn đá khác, ngoại trừ 7 thể địa lí liệt kê ở trên. Một số báo cáo nêu nguồn tin tình báo Philippines hồi tháng 6 năm 2015 cáo buộc rằng Trung Quốc đã bồi tạo đất trên đá Én Đất. Tuy nhiên, các nguồn riêng biệt với hiểu biết tại chỗ sau đó xác nhận rằng Én Đất cũng như Ba Đầu, Ken Nan, và Ga Ven Nam vẫn chưa bị chiếm đóng.

Tuy nhiên, trạng thái chưa bị chiếm đóng của các thể địa lí này là mong manh. Cả đá Én Đất lẫn Ba Đầu đều có giá trị chiến lược. Chúng tạo thành rìa phía đông của hai nhóm đảo chính trong quần đảo Trường Sa - bãi Tizard và bãi Union. Chúng cũng đã dần dần “trở thành” đảo. Các sách Hướng dẫn lái tàu (Sailing Directions) đến giữa thập niện 1990 đều cho thấy rằng chúng là các bãi triều thấp. Nhưng ngày nay mỗi bãi có một đụn cát dài 100 mét được biết là còn đang phát triển cả về diện tích lẫn chiều cao. Một đụn cát nhỏ hơn cũng đã xuất hiện trên đá Ken Nan vốn thường bị nhầm lẫn với đá Tư Nghĩa (Hughes Reef) mà thật ra nằm cách 1 hải lí về phía tây. Có nhiều câu chuyện trên truyền thông xã hội Việt Nam cho rằng Én Đất, Ba Đầu, và Ken Nan thường xuyên là các vị trí cho trò mèo bắt chuột thầm lặng giữa Trung Quốc và Việt Nam, một bên cố tìm cách đặt chân vững chắc trên các ‘đảo mới’ này trong khi bên kia cố phá hỏng những nỗ lực đó.

Một tình huống tương tự đã xảy ra tại bãi cạn Luconia Nam (tiếng Malay: Beting Patinggi Ali) 84 hải lí ngoài khơi Sarawak của Malaysia. Các quan chức Trung Quốc lẫn Malaysia đều xác nhận rằng các tàu của Trung Quốc đã liên tục có mặt tại bãi cạn này kể từ năm 2013. Thú vị là một trong những thể địa lí trong bãi này, Luconia Breakers (Malay: Beting Hempasan Bantin), dường như đã thay đổi trạng thái từ một bãi triều thấp thành một “đảo nhỏ”, dùng từ của Bộ trưởng phủ Thủ tướng Malaysia Shahidan Kassim. Ảnh vệ tinh và không ảnh cho thấy một đụn cát dài khoảng 70 mét trên thể địa lí này. Các ảnh này cũng cho thấy các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc, cùng các tàu Hải quân Malaysia bám theo đang neo đậu gần ‘đảo mới’ này.

Một vài học giả cho rằng Luconia Breakers đã được bồi đắp thành một đảo nhân tạo của Malaysia vào một lúc nào đó trước năm 2009. Tuy nhiên, lập luận này không thật hơp lí. Là nước ven biển với EEZ vượt khỏi bãi cạn này, Malaysia rất quan tâm giữ cho thể thể địa lí này vẫn chìm dưới nước. Một phán quyết của Tòa án Quốc tế năm 2012 nói rằng “bãi triều thấp không sở hữu được.” Theo phán quyết này, Luconia Breakers có thể bảo vệ tránh khỏi yêu sách chủ quyền của Trung Quốc một cách hợp pháp nếu nó vẫn còn là một bãi triều thấp.

Một số người đã chất vấn liệu một sự nâng cao nhanh chóng như vậy có thể đã thật sự xảy ra một cách tự nhiên trong một khoảng thời gian ngắn được không. Nhưng điều này là hầu như không phải hiếm xảy ra. Sự xuất hiện của những cồn cát nhỏ đã được ghi nhận trong vài thập kỉ qua tại một số rạn đá ở quần đảo Trường Sa, với Én Đất, Ba Đầu, Ken Nan, và Bàn Than là một vài ví dụ nổi bật. Với sự giúp sức của sóng gió, trầm tích san hô có thể hình thành các đụn cát lớn dần hoặc bị quét trôi đi - như trường hợp đá An Nhơn - mà không có bất kì chuyển động nào dưới nền đá ngầm.

Bằng chứng về thủy văn do Philippines trình bày tại Tòa Trọng tài Thường trực cho thấy rằng 3 trong số 7 thể địa lí mà Trung Quốc chiếm đóng, gồm đá Chữ Thập (Fiery Cross), Châu Viên (Cuarteron) và Gạc Ma (Johnson South), có một số phần nằm trên mặt nước khi triều cao, nhưng 4 thể địa lí khác, gồm Subi, Gaven, Tư Nghĩa, và Vành Khăn là bãi triều thấp trongtrạng thái tự nhiên ban đầu của chúng trước khi có chương trình bồi tạo đất cấp tập kể từ năm 2013 đã biến tất cả 7 thể địa lí này thành đảo nhân tạo.

Malaysia

Như trường hợp Philippines, số lượng các thể địa lí do Malaysia chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa sẽ thay đổi tùy thuộc vào cách định nghĩa chiếm đóng. Hầu hết các tường thuật thường nói tới 5 hoặc 8 thể địa lí. Malaysia có quân đội và các cơ sở đóng trên 5 thể địa lí:

1.         Đá Hoa Lau (Swallow Reef, tiếng Malay: Layang-Layang), từ năm 1983,
2.         Đá Kiêu Ngựa (Ardasier Reef, Ubi), từ năm 1986,
3.         Đá Kì Vân (Mariveles Reef, Mantanani), từ năm 1986,
4.         Đá Én Ca (Erica Reef, Siput), từ năm 1999,
5.         Đá Thám Hiểm (Investigator Shoal, Peninjau), kể từ năm 1999.

Một số nguồn tin còn liệt kê thêm 3 thể địa lí như đã được Malaysia chiếm đóng, gồm đá Đá Lát (Dallas Reef, Laya), đá Sác Lốt (Royal Charlotte Reef, Semarang Barat Besar), và đá Louisa (Louisa Reef, Semarang Barat Kecil), . Tuy nhiên, nhiều nguồn tin am tường, đáng tin cậy gần đây từ Malaysia, Brunei, và Mỹ xác nhận rằng trên thực tế không có việc đóng quân trên 3 thể địa lí này.

Malaysia có vẻ “chiếm đóng” đá Dallas theo cách tương tự như cách mà Philippines đã làm với đảo Bình Nguyên. Binh lính từ đá Kiêu Ngựa gần bên, nằm cách Dallas khoảng 3 hải lí, có thể canh giữ và đi đến đá này một cách thường xuyên.Trái lại, đá Charlotte và Louisa gần như không thể phân loại là “ bị chiếm đóng”. Mặc dù có một ngọn đèn hiệu trên Charlotte, du khách cho biết rằng nó không hoạt động và không có kiến trúc nào khác trên rạn đá này. Du khách cũng thấy Louisa bỏ trống và không có kiến trúc nào khác hơn là một ngọn đèn hiệu hình tháp, cũng không có hoạt động. Trong số 8 thể địa lí này thì Hoa Lau, Kì Vân, Én Ca, Charlotte, và Louisa được biết có một số phần tự nhiên nhô lên khi triều cao, trong khi Kiêu Ngựa, Dallas, và Thám Hiểm có khả năng chỉ là các bãi triều thấp. Các đèn hiệu trên Charlotte và Louisa có thể đã được Malaysia xây dựng trong thập niên 1980 như một phương cách để khẳng định chủ quyền đối với hai rạn đá này.

Brunei

Thể địa lí duy nhất ở quần đảo Trường Sa mà Brunei yêu sách là đá Louisa. Theo báo cáo chính thức của MalaysiaBrunei, Thư trao đổi (Exchange of Letters ) kí vào năm 2009 đã “thiết lập sự phân định cuối cùng về lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế” giữa hai nước. Thỏa thuận này nêu rõ rằng Brunei có chủ quyền trên hai lô dầu khí mà Louisa nằm trên đó.

Mặc dù Malaysia vẫn chưa chính thức từ bỏ yêu sách của mình đối với thể địa lí này, thỏa thuận với Brunei làm suy yếu đáng kể yêu sách của Malaysia. Vì Malaysia lẫn Brunei đều dựa trên cơ sở quyền quốc gia ven biển cho tuyên bố chủ quyền của họ đối với Louisa, việc Malaysia thừa nhận lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Brunei tương đương với việc nhượng Louisa cho Brunei. Tuy nhiên, điều này có vẻ là một sự hiểu ngầm chứ không phải là một thỏa thuận chính thức thuộc bất kì dạng nào. Thư trao đổi vẫn chưa được công bố, và thậm chí nếu nó được công bố, có nhiều khả năng sẽ không có đề cập tới Louisa. Điều này chắc chắn giống như vụ Khu Limbang, một tranh chấp lãnh thổ khác giữa Brunei và Malaysia.

Với tất cả sự chú ý tập trung vào các tranh chấp ở biển Đông, vẫn chưa có đủ sự rõ ràng về một số thực tế cơ bản như nước nào sở hữu cái gì. Như Bill Hayton đã cho thấy, rất nhiều sách báo dựa vào các tài liệu lịch sử vốn “sử dụng các căn cứ không đáng tin cậy để từ đó lại viết ra các câu chuyện đáng tin.” Hy vọng rằng bài viết này là một bước đi đúng hướng trong việc dỡ bỏ tấm màn dày thường che khuất sự thật về những tranh chấp này.



Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K.Inouye. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả, không phản ánh quan điểm của Chính phủ Hoa Kì, Bộ Quốc phòng Hoa Kì, và Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương.

No comments:

Post a Comment