(World Affairs Journal May/June 2013)
Mohan Malik
Quần đảo
Trường Sa - cách đây không lâu chủ yếu được biết đến như một vùng nhiều tôm cá -
đã trở thành một điểm nóng quốc tế khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc (TQ) nhấn mạnh
với mức hung hăng ngày càng tăng rằng các đảo, đá, và các rạn san hô, theo lời
của Thủ tướng Ôn Gia Bảo, là "lãnh thổ lịch sử của TQ từ thời xa xưa."
Thông thường, đối với chủ quyền và ranh giới biển các yêu sách lãnh thổ chồng lấn
phải được giải quyết thông qua việc vận dụng kết hợp luật tập quán quốc tế, phán
quyết trước Tòa Công lí Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc trọng
tài theo Phụ lục VII của Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS). Trong khi TQ đã
phê chuẩn UNCLOS, Công ước này nói chung không chấp nhận bỏ các yêu sách"dựa
trên lịch sử",mà đó lại đúng là loại yêu sách mà Bắc Kinh đưa ra lúc này
lúc khác. Hôm 4 tháng 9 năm 2012, Ngoại trưởng TQ, Dương Khiết Trì, nói với Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có "rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lí
cho thấy rằng TQ có chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông và các vùng biển liền
kề."
Xét về mặt
"bằng chứng pháp lí", đại đa số các chuyên gia pháp lí quốc tế đều kết
luận rằng yêu sách sở hữu (danh nghĩa) lịch sử của TQ đối với biển Đông, bao
hàm thẩm quyền chủ quyền đầy đủ và đồng ý cho các nước khác đi ngang qua là
không hợp lệ. Các bằng chứng lịch sử, nếu có, là kém thuyết phục. Có nhiều mâu
thuẫn trong việc TQ sử dụng lịch sử để biện minh cho yêu sách của họ đối với
các đảo và rạn đá ở biển Đông, không ít trong số đó là sự khẳng định đầy tranh
cãi của họ về các tương đồng với việc bành trướng đế quốc chủ nghĩa của Hoa Kì
và các cường quốc châu Âu trong thế kỉ XVIII và XIX. Biện minh cho những nỗ lực
của TQ mở rộng biên giới biển của họ qua việc yêu sách các đảo và rạn đá xa bờ,
Cổ Khánh Quốc (Jia Qingguo), giáo sư trường Đại học Quan hệ Quốc tế Bắc Kinh,
cho rằng TQ chỉ đơn thuần theo gương phương Tây. "Hoa Kì thì có đảo Guam ở
châu Á ở rất xa đất Mỹ và người Pháp thì có các đảo ở Nam Thái Bình Dương, vì vậy
chẳng có điều gì mới cả", Cổ Khánh Quốc nói với AFP mới đây.
Yêu sách
của TQ đối với quần đảo Trường Sa trên cơ sở lịch sử bị mắc mứu ở sự kiện là không
có đế chế nào của khu vực trước đây đã thực thi chủ quyền. Ở châu Á thời tiền
hiện đại, các đế chế có đặc điểm là có các đường biên giới không xác định,
không được bảo vệ, và thường thay đổi. Khái niệm về quyền bá chủ (suzerainty) chiếm
ưu thế. Không giống như một nhà nước-dân tộc (nation-state), biên giới của đế chế
TQ vừa không được vẽ cẩn thận vừa không bố phòng mà giống như các vòng tròn hay
các khu vực, giảm dần từ trung tâm của nền văn minh ra đến vùng ngoại vi của
người man di xa lạ. Quan trọng hơn, trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước
láng giềng Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, Bắc Kinh luôn luôn giữ lập trường cho rằng
ranh giới trên bộ của họ chưa bao giờ được xác định, phân giới cắm mốc. Nhưng
bây giờ, khi nói đến các đảo, bãi ngầm, và các rạn đá trong vùng biển Đông, Bắc
Kinh lại tuyên bố khác đi. Nói cách khác, TQ tuyên bố rằng ranh giới trên bộ của
họ chưa bao giờ được xác định và phân giới trong lịch sử trái ngược hẳn với lập
trường rằng biên giới trên biển của TQ luôn luôn xác định và có phân giới rạch
ròi. Mâu thuẫn cơ bản trong lập trường của TQ về biên giới trên bộ và biên giới
trên biển nằm ở đây, nên nó không đứng vững được. Trên thực tế, chính những nỗ
lực hồi giữa thế kỉ XX nhằm chuyển đổi các đường biên giới không xác định của các
nền văn minh và vương triều xưa kia hưởng quyền bá chủ thành các đường biên giới
xác định rạch ròi, giới hạn, và có phân giới của các nhà nước-dân tộc hiện đại thưc
thi chủ quyền nằm ở trung tâm của các tranh chấp lãnh thổ và biển của TQ với
các nước láng giềng. Nói một cách đơn giản, chủ quyền là một khái niệm hậu đế
quốc gắn với nhà nước-dân tộc, không phải với các đế chế xưa kia.
Biên giới
hiện tại của TQ phần lớn phản ánh những ranh giới được thiết lập trong thời hoàng
kim của chủ nghĩa bành trướng nhà Thanh (Mãn Châu) thế kỉ XVIII, mà qua thời
gian đã được kiên cố hoá thành biên giới quốc gia cố định theo sự áp đặt của hệ
thống nhà nước-dân tộc Westphalia trên toàn châu Á trong thế kỉ XIX và XX. Tuy
nhiên, lịch sử chính thốngc của TQ ngày nay thường bóp méo giai đoạn lịch sử phức
tạp này, tuyên bố rằng người Mông, Tạng, Mãn, và Hán đều là người TQ, trong khi
thật ra Vạn Lí Trường Thành được các triều đại TQ xây dựng để bảo vệ Trung Hoa Hán
tộc trước sự xâm lấn thường xuyên của người Mông Cổ và các bộ tộc Mãn Châu phía
Bắc, bức tường thành này thực sự tượng trưng vòng an ninh bên ngoài của đế chế Trung
Hoa Hán tộc. Trong khi hầu hết các nhà sử học coi sự càn quét của các đoàn quân
Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo trong những năm đầu thế kỉ 13 như một sự
kiện phá hoại lớn đe dọa sự sống còn của các nền văn minh xưa ở Ấn Độ, Ba Tư,
và các nước khác (TQ đứng đầu trong số đó), người TQ lại cỗ võ một cách có ý thức
huyền thoại cho rằng ông ta thực sự là người "TQ", và do đó tất cả
các khu vực mà người Mông Cổ (nhà Nguyên) đã từng chiếm đóng hoặc chinh phục
(như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) đều thuộc về TQ. Các yêu sách của TQ
đối với Đài Loan và biển Đông cũng dựa trên cơ sở là cả hai đều là bộ phận của
đế chế Mãn Châu. (Trên thực tế, trong các bản đồ nhà Thanh hay Mãn Châu, chính
đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được mô tả như là
ranh giới cuối cùng phía nam của TQ.) Trong phiên bản lịch sử này, bất kì lãnh
thổ nào bị "người TQ" chinh phục trong quá khứ vẫn cứ luôn là của TQ,
bất chấp cuộc chinh phục có thể đã xảy ra vào lúc nào.
Việc viết
và viết lại lịch sử từ góc độ dân tộc chủ nghĩa như thế để tăng cường sự đoàn kết
dân tộc và tính chính đáng của chế độ đã được nhà lãnh đạo của TQ cả phe Quốc dân
đảng lẫn Cộng sản dành ưu tiên cao nhất. Lãnh đạo Đảng Cộng sản TQ tự xử sự một
cách có ý thức như là người thừa kế di sản của đế chế TQ, thường sử dụng các biểu
tượng và lối ăn nói của đế chế. Từ sách giáo khoa tiểu học cho đến các bộ phim
truyền hình về lịch sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát nhồi nhét các
thế hệ người TQ sự oai phong, vĩ đại của Trung Hoa đế chế. Như các nhà Hán học
Úc Geremie Barmé chỉ ra: "Trong nhiều thập kỉ giáo dục và tuyên truyền TQ
đã nhấn mạnh vai trò của lịch sử trong sự phát triển của nhà nước-dân tộc TQ. .
. Trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao đã bị vứt bỏ hết chỉ còn cái
tên, vai trò của lịch sử trong tương lai của TQ vẫn kiên định." Cứ như vậy
đến nỗi lịch sử đã đượccác viện nghiên cứu, các phương tiện truyền thông và các
cơ quan giáo dục do nhà nước điều khiển thêu dệt thành một công cụ lãnh đạo nhà
nước (còn được gọi là" xâm lược bản đồ").
TQ sử dụng
chuyện dân gian, thần thoại, truyền thuyết, cũng như lịch sử, để cổ suý yêu
sách lãnh thổ trên bộ và trên biển lớn hơn. Sách giáo khoa TQ giảng dạy khái niệm
về Vương triều Trung tâm (Trung Hoa) như là nền văn minh lâu đời nhất và tiên tiến
nhất nằm ngay tại trung tâm của vũ trụ, bao quanh bởi các nước nhỏ hơn bị Hoa
hoá một phần trong khu vực Đông và Đông Nam Á, các nước này phải liên tục cúi đầu
thần phục họ. Phiên bản lịch sử TQ thường cố tình làm lu mờ sự phân biệt giữa
những cái không gì khác hơn là ảnh hưởng bá quyền, mối quan hệ triều cống, quyền
bá chủ với sự kiểm soát thực tế. Tán đồng quan điểm cho rằng những ai làm chủ
được quá khứ sẽ khống chế hiện tại và vạch hướng cho tương lai, Bắc Kinh luôn
luôn đặt cược rất cao vào “con bài lịch sử” (thường là một cách giải thích xét
lại lịch sử) trong các nỗ lực ngoại giao của mình nhằm đạt được mục tiêu của chính
sách đối ngoại, nhất là để bắt các nước khác nhượng bộ lãnh thổ và ngoại giao.
Hầu như tất cả các nước tiếp giáp, lúc này hay lúc khác, đều bị sức mạnh vũ lực
của TQ đụng đến - Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Việt Nam,
Philippines, và Đài Loan - và đều là đối tượng cho lịch sử xét lại của TQ. Như
Martin Jacques lưu ý trong cuốn When China
Rules the World (Khi TQ thống trị thế giới) "Chủ nghĩa Hoa vi trung đế
quốc định hình và là nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc TQ hiện đại."
Nếu ý tưởng
về chủ quyền quốc gia xuất hiện ở châu Âu thế kỉ XVII và hệ thống đó bắt nguồn
từ Hiệp ước Westphalia, thì ý tưởng về chủ quyền trên biển chủ yếu là khái niệm
do Mỹ đặt ra giữa thế kỉ XX mà TQ đã vơ vào để mở rộng biên giới biển của mình.
Như Jacques lưu ý, "Ý tưởng về chủ quyền trên biển là một phát minh tương
đối gần đây, bắt đầu từ năm 1945 khi Hoa Kì tuyên bố rằng họ có ý định thực hiện
chủ quyền đối với lãnh hải của họ." Trong thực tế, Công ước LHQ về Luật Biển thể hiện nỗ lực quốc tế nổi trội nhất nhằm
áp dụng các khái niệm về chủ quyền trên đất liền vào lĩnh vực biển trên toàn thế
giới, tuy vậy điều quan trọng là nó bác bỏ ý tưởng biện minh bằng quyền lịch sử.
Vì vậy, mặc dù Bắc Kinh yêu sách khoảng tám mươi phần trăm biển Đông là
"vùng nước lịch sử" (và hiện đang tìm cách nâng yêu sách này lên
thành một "lợi ích cốt lõi" ngang với các yêu sách chủ quyền đối với
Đài Loan và Tây Tạng), nói về mặt lịch sử, TQ có quyền yêu sách biển Đông tới
đâu thì Mexico cũng có quyền yêu sách sử dụng độc quyền vịnh Mexico, hoặc Iran đòi
Vịnh Ba Tư, hay Ấn Độ đòi Ấn Độ Dương đến đấy.
Đế chế
xưa hoặc giành được quyền kiểm soát vùng lãnh thổ thông qua xâm lược, thôn
tính, hoặc đồng hóa hoặc để mất chúng vào tay đối thủ có binh lực hoặc khả năng
cai quản nhà nước ưu việt hơn. Mở rộng và thu hẹp lãnh thổ là chuẩn mực, xác định
bởi sự hùng mạnh hay sự suy yếu của một vương triều hay đế chế. Ý tưởng "lãnh
thổ thiêng liêng" là phi lịch sử bởi vì việc kiểm soát lãnh thổ thì dựa trên
việc nước nào tóm được hoặc lấy cắp những gì thuộc nước khác cuối cùng. Biên giới
của nhà Tần, Hán, Đường, Tống, Minh thịnh rồi suy suốt lịch sử. Một Trung Hoa đế
chế hùng mạnh, giống như nước Nga Sa hoàng, là kẻ bành trướng ở vùng Nội Á và
Đông Dương mỗi khi cơ hội xuất hiện và sức mạnh cho phép. Việc mở mang bờ cõi dần
dần qua nhiều thế kỉ dưới các triều đại không
Trung Hoa Mông Cổ và Mãn Châu mở rộng sự kiểm soát của triều đình TQ đối với
Tây Tạng và các bộ phận của Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan và Đông Nam Á.
Trong thực tế, TQ hiện đại là một "nhà nước-đế chế" đội lốt một nhà
nước-dân tộc.
Nếu các
yêu sách của TQ biện minh được trên cơ sở lịch sử, thì các yêu sách lịch sử của
Việt Nam và Philippines dựa trên lịch sử cũng biện minh được. Ví dụ, sinh viên
lịch sử châu Á đều biết rằng dân Malaysia có liên hệ đến người Philippines hiện
nay yêu sách của họ đối với Đài Loan sẽ thuyết phục hơn nhiều so với Bắc Kinh. Bởi
vì Đài Loan ban đầu được định cư bởi con cháu những người Malaysia-Polynesian -,
tổ tiên của các nhóm thổ dân ngày nay – của họ từng sống ở vùng đồng bằng thấp ven
biển. Trong bài viết trên tờ South China
Morning Post năm ngoái, nhà quan sát Châu Á nổi bật Philip Bowring nêu "Sự
kiện TQ có những ghi chép lịch sử lâu dài không làm mất hiệu lực lịch sử các quốc
gia khác thể hiện qua các hiện vật, ngôn ngữ, dòng giống và các quan hệ di truyền,
các bằng chứng về giao thương và đi lại." Trừ khi tán đồng khái niệm về
ngoại lệ của TQ, "yêu sách lịch sử" của TQ đế chế có giá trị giống như
những vương triều và đế quốc khác trong khu vực Đông Nam và Nam Á. TQ đưa ra
yêu sách về quyền sở hữu đối với thuộc địa của đế chế Mông Cổ và Mãn Châu sẽ
tương tự như Ấn Độ đưa ra yêu sách đối với Afghanistan, Bangladesh, Miến Điện,
Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan và Sri Lanka trên cơ sở rằng tất cả các
nước này đều bộ phận hoặc của đế chế Maurya, Chola hoặc của đế chế Moghul và đế
quốc Ấn Độ thuộc Anh.
Các yêu
sách của TQ ở biển Đông cũng đánh dấu một sự thay đổi lớn khỏi định hướng địa
chính trị lâu đời đối với cường quốc lục địa. Với việc tuyên bố có một truyền
thống mạnh mẽ về đi biển, TQ đề cập nhiều cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa tới Ấn Độ
Dương và Châu Phi đầu thế kỉ XV. Nhưng, như Bowring chỉ ra rằng "Trong
lĩnh vực hàng hải bên ngoài vùng nước ven biển thì người TQ thực sự là kẻ đến
sau . Trong nhiều thế kỉ, các bậc thầy của các đại dương là dân
Malayo-Polynesian, những người từng thuộc địa hoá phần lớn thế giới, từ Đài
Loan đến New Zealand và Hawaii về phía nam và phía đông , rồi Madagascar về phía
tây . Các chum đồng đã được giao thương với Palawan, ngay phía nam của
Scarborough, vào thời của Khổng Tử. Khi những nhà tu Phật giáo TQ như Pháp Hiển
(Faxian) hành hương đến Sri Lanka và Ấn Độ vào thế kỉ V, họ đã đi trên tàu do
người Mã Lai sở hữu và điều khiển. Tàu từ vùng mà nay là Philippines giao thương
với Phù Nam, một nước hiện nay là miền Nam Việt Nam, cả ngàn năm trước nhà
Nguyên".
Và cuối
cùng, cái gọi là "yêu sách lịch sử" của TQ đối với biển Đông thực sự
không phải là "hàng thế kỉ." Các yêu sách này chỉ bắt đầu từ năm
1947, lúc chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẽ ra cái gọi là
"đường mười một đoạn" trên bản đồ biển Đông của TQ, bao quanh quần đảo
Trường Sa và các chuỗi đảo khác mà Quốc Dân Đảng cầm quyền tuyên bố thuộc chủ
quyền TQ. Chính Tưởng Giới Thạch khi nói rằng đã xem phát xít Đức như một mô
hình cho TQ, đã bị cuốn hút bởi ý tưởng Nazi (Quốc xã) về một Lebensraum ("không
gian sống") mở rộng cho dân tộc Trung Hoa. Ông đã không có cơ hội để tự
mình thành kẻ theo chủ nghĩa bành trướng bởi vì người Nhật buộc ông vào thế phòng
thủ, nhưng những người vẽ bản đồ của chế độ Quốc dân đảng đã vẽ đường chữ U mười
một đoạn trong cố gắng để mở rộng "không gian sống" của TQ ở biển
Đông. Sau chiến thắng của Đảng Cộng sản TQ trong cuộc nội chiến vào năm 1949, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhận lấy cú xâm lược bản đồ này, chỉnh lại khái niệm
của Tưởng Giới Thạch thành "đường chín đoạn" sau khi xóa hai đoạn ở Vịnh
Bắc Bộ năm 1953.
Từ khi
Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc, TQ đã vẽ lại bản đồ của họ, xác định lại
biên giới, tạo dựng bằng chứng lịch sử, sử dụng vũ lực để tạo ra thực tế lãnh
thổ mới, đặt tên lại các đảo, và tìm cách áp đặt phiên bản lịch sử của mình lên
các vùng biển trong khu vực. Nặm 1972 họ thông qua "Luật về lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải", tuyên bố chủ quyền 4/5 biển Đông, tiếp sau là những
cuộc đụng độ vũ trang với hải quân Philippines và Việt Nam trong suốt những năm
1990. Gần đây hơn, họ phái một số lượng lớn tàu cá và tàu hải giám đến vùng biển
tranh chấp theo cái tương tự như cuộc "chiến tranh nhân dân trên biển"
đã làm tăng căng thẳng nhiều hơn. Trích lời bình luận Sujit Dutta, "chủ
thuyết phục hồi lãnh thổ không giảm bớt của TQ dựa trên. . . lí thuyết rằng vùng
ngoại vi phải được chiếm cứ để đảm bảo an toàn cho vùng cốt lõi. [Điều này] là
một khái niệm cơ bản thời đế chế đã được phe dân tộc chủ nghĩa TQ - cả Quốc Dân
Đảng lẫn Cộng sản - tiếp thu lại. Những nỗ lực của chế độ [hiện nay] để vươn tới
biên giới địa lí theo họ tưởng tượng thường có cơ sở lịch sử ít ỏi và tiếp tục
có hậu quả chiến lược bất ổn cao."
Một lí
do mà dân Đông Nam Á cảm thấy khó chấp nhận yêu sách lãnh thổ của TQ là các yêu
sách này mang kèm với chúng sự khẳng định về sự ưu việt của chủng tộc Hán hơn
các chủng tộc và đế quốc châu Á khác. Jay Batongbacal thuộc trường Đại học luật
Philippines nói: "Một cách trực giác, chấp nhận đường chín đoạn là một sự
từ chối tương ứng về bản sắc và lịch sử thật sự của tổ tiên người Việt Nam,
Philippines, và Mã Lai, thực chất đó là sự hồi sinh trong thời hiện đại sự phỉ
báng các sắc dân không TQ là 'man di’ không được hưởng sự tôn trọng và phẩm giá
ngang bằng."
Các đế chế
và vương triều không bao giờ thực thi chủ quyền. Nếu yêu sách lịch sử có giá trị
nào đó thì Mông Cổ có thể yêu sách tất cả các khu vực của châu Á đơn giản là vì
họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này. Hoàn toàn không có cơ sở lịch
sử để hậu thuẫn bất cứ yêu sách nào trong những yêu sách đường nhiều đoạn đó, nhất
là xét rằng các vùng lãnh thổ của đế chế TQ chưa bao giờ được phân định biên giới
kĩ càng như các nhà nước-dân tộc mà chỉ tồn tại như các vùng ảnh hưởng từ một
trung tâm văn minh giảm dần đi. Đây là lập trường mà TQ đương đại bắt đầu xác lập
vào thập niên 1960 khi đàm phán biên giới trên trên bộ với nhiều láng giềng.
Nhưng đó không phải là lập trường của họ hiện nay trong các cuộc đụng độ về bản
đồ, ngoại giao và quân sự mức thấp để xác định biên giới. Việc diễn giải lại
liên tục lịch sử để đẩy mạnh các yêu sách chính trị, lãnh thổ trên bộ và trên biển
hiện đại, kết hợp với khả năng của giới lãnh đạo Cộng sản kích động hay dập tắt
"các cao trào dân tộc chủ nghĩa" giống như tắt mở một khoá nước trong
những thời điểm căng thẳng với Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và
Philippines, khiến Bắc Kinh khó trấn an các nước láng giềng rằng "sự trỗi
dậy hòa bình" của họ là hoàn toàn hòa bình. Do có sáu bên yêu sách các đảo
san hô vòng, đảo thường, đảo đá, và các mỏ dầu ở biển Đông, các tranh chấp ở quần
đảo Trường Sa, tự bản chất, là những tranh chấp đa phương đòi hỏi phân xử qua trọng
tài quốc tế. Nhưng Bắc Kinh nằng nặc cho rằng các tranh chấp này là song phương
để đặt các đối thủ nằm trên cái đe lịch sử xét lại và dưới cái búa sức mạnh
quân sự ngày càng tăng của họ.
No comments:
Post a Comment